Thứ Hai, 8 tháng 5, 2017

Phó thủ tướng nêu lý do chỉ 1% doanh nghiệp rót tiền vào nông nghiệp

Phó thủ tướng Vương Đình Huệ cho hay, nhiều doanh nghiệp nói rằng họ không cần tiền hỗ trợ của Nhà nước khi đầu tư vào nông nghiệp...

“Hàng loạt những bất cập, hạn chế khiến doanh nghiệp chưa thể đầu tư mạnh vào nông nghiệp, nông thông, trong đó rõ nhất là chúng ta còn lúng túng khi triển khai chủ trương tích tụ ruộng đất và thêm vào đó là chính sách dồn điền đổi thửa, tạo lập một thị trường chuyển nhượng đất đai, khiến nhiều doanh nghiệp không có diện tích đất đủ lớn để đầu tư sản xuất”.

Kết luận trên được Phó thủ tướng Vương Đình Huệ đưa ra khi chủ trì cuộc họp về dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.

Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn, cho biết sau 3 năm thực hiện Nghị định 210/2013 của Chính phủ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, chỉ thu hút được 64 dự án ở 23, tỉnh, thành phố, trong đó phần nhiều là các dự án đăng ký thêm.

Ngoài ra, Nghị định quy định nhà nước hỗ trợ vốn nhưng trong bối cảnh ngân sách khó khăn nên vốn bố trí cho 64 dự án này sau mỗi năm bị bớt đi một nửa.

Theo cơ quan soạn thảo là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự thảo Nghị định mới tập trung vào các vấn đề: mở rộng diện doanh nghiệp, dự án được Nhà nước hỗ trợ; phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ; bổ sung cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trong các giai đoạn phát triển thị trường, làm thương hiệu, hỗ trợ sản phẩm có lợi thế; cải cách thủ tục hành chính và cơ chế về nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước.

Phó thủ tướng Vương Đình Huệ thông tin, số liệu cả nước chỉ có 1% tổng số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và chiếm khoảng gần 3% tổng số vốn đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp vào sản xuất, kinh doanh.

Về nguyên nhân của thực trạng này, ông Huệ cho rằng đầu tiên là vướng mắc về đất đai. Tiếp đến là do chính quyền địa phương dễ thay đổi về quy hoạch sử dụng đất, gây ra rủi ro rất lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh lâu dài của doanh nghiệp.

Thêm một nguyên nhân nữa chính sách bảo hiểm nông nghiệp không hiệu quả khiến ngân hàng không thể cho doanh nghiệp vay vốn.

Theo Phó thủ tướng, muốn kêu gọi doanh nghiệp đầu tư thì Nhà nước phải có các giải pháp về cơ chế, pháp lý hỗ trợ cho đầu ra của sản phẩm bằng cách phát triển thị trường buôn bán, sàn giao dịch nông sản, tạo sự yên tâm của các nhà đầu tư.

“Nhiều doanh nghiệp nói họ không cần tiền hỗ trợ của Nhà nước; quan trọng phải là phải có hành lang pháp lý, cơ chế vững chắc để thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và trong khu vực này nảy nở ngày càng nhiều hơn”, Phó thủ tướng nói.

Do đó, Phó thủ tướng đề nghị đổi tên dự thảo thành Nghị định về phát triển doanh nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn thay vì chỉ có khuyến khích doanh nghiệp đầu tư khi nhiều gia trại, trang trại, hợp tác xã có năng lực sản xuất lớn nhưng chưa phát triển thành doanh nghiệp. Thêm vào đó, cơ quan soạn thảo cần đặt vấn đề khởi nghiệp trong nông nghiệp để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp.

Về một số quy định về hỗ trợ vốn của dự thảo Nghị định, Phó thủ tướng nêu quan điểm: “Nhà nước bỏ ra ít thôi, hoặc không bỏ thêm ra mà chỉ có thể là bớt thu từ thuế, hỗ trợ tín dụng, đất đai”.

Lãnh đạo Chính phủ yêu cầu cơ quan soạn thảo hoàn thiện lại dự thảo Nghị định, lưu ý việc cập nhật các nội dung của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (dự kiến được Quốc hội thảo luận, thông qua tại Kỳ họp thứ 3) và các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5 về thể chế kinh tế thị trường.

Trong đó, coi trọng các nội dung về tạo thuận lợi thương mại, mở rộng đối tượng điều chỉnh, quy định công bố công khai quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, các chính sách liên quan tới phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ…

Theo Nguyên Hà

Vneconomy

Đọc tiếp »

Nông nghiệp Việt Nam sẽ vẫn cần những cuộc giải cứu

Dưa hấu và thịt lợn mới được ghi tên trong danh sách nông sản cần giải cứu. Tuy không phải giải pháp triệt để, nhưng đây sẽ vẫn là hiện tượng cần được hoan nghênh trước khi có những cuộc giải cứu trong tư duy làm nông nghiệp.

Ba lần người nông dân cô đơn

Năm nào cũng vậy, các vụ giải cứu luôn được tổ chức mỗi khi nông dân gặp khó khăn. Mấy hôm nay cần giải cứu thịt lợn, sắp tới có thể là vải thiều. Trước đó, xã hội đã từng giải cứu thanh long, ớt, hành tím,... Xót xa hơn, trâu bò cũng được huy động vào cuộc giải cứu dưa hấu, chuối. Còn sữa tươi đành gửi nơi ruộng đồng, lối ngõ.

Không nắm được nhu cầu thị trường, sản xuất theo phong trào, nhẹ dạ trước tin đồn,... là những nguyên nhân nhanh chóng được đưa ra. Dù vậy, mọi cố gắng tìm ra giải pháp dường như đều thất bại. Không phải vì nông dân không biết những điều trên. Có lẽ do họ đã 3 lần đơn độc.

Kinh nghiệm về nông nghiệp đã luôn cho lời khuyên đúng đắn. Hơn cả sách, đó là những người bạn ngàn đời của nông dân Việt Nam. Nhưng khí hậu đã thay đổi. Kinh nghiệm không còn có thể cho biết trước đợt mưa, con nước. Người bạn lâu năm kia cũng chịu bất lực trước thiên tai, dịch bệnh. Người nông dân có một lần cô đơn.

Một vài nông hộ nghĩ khác và làm khác. Giống cây, con mới được sử dụng. Học tập điển hình tiên tiến nhanh chóng trở thành phong trào. Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 nêu rõ số lượng 35 triệu con lợn. Nhưng thời điểm này, chiến dịch giải cứu lợn đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xúc tiến, dù Tổng cục Thống kê cho biết cả nước mới chỉ có 29 triệu con. Chưa rõ chiến lược sai hay thống kê chưa sát, chỉ thấy sự cô đơn vẫn vây lấy người nông dân.

Sẽ thật thiếu công bằng khi cho rằng việc sản xuất nhiều đến mức cần giải cứu hoặc đổ bỏ không có lỗi của người làm nông. Nhưng người nông dân có chính quyền cơ sở, hiệp hội giúp sức bảo vệ. Họ đã làm gì hay đang khiến nông dân thêm một lần cô đơn?

Tích tụ, tập trung và ý tưởng ngân hàng ruộng đất

Để thành công trong nông nghiệp, không thể chỉ đơn độc. Ngày làm việc đầu tiên sau Tết Nguyên đán, người đứng đầu Chính phủ cho biết đã có lời giải cho bài toán nông nghiệp Việt Nam. Liên kết 5 nhà (nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà nông, nhà khoa học và nhà băng) và tích tụ, tập trung ruộng đất được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, coi đây là yếu tố đột phá để phát triển nông nghiệp.

Thực tế, tích tụ và tập trung là hai khái niệm khác nhau. Theo TS. Nguyễn Đức Thành, tích tụ ruộng đất là sự tăng thêm về quy mô diện tích đất thông qua mua bán, trao đổi. Trong khi đó, tập trung ruộng đất cũng đưa đến kết quả làm gia tăng quy mô diện tích đất nhưng do người chủ của các thửa đất tự nguyện hợp nhất.

Phương pháp mà nhiều tỉnh áp dụng hiện nay là tập trung ruộng đất. Chính quyền tỉnh Thái Bình đứng ra ký hợp đồng thuê đất với từng người hộ dân, rồi cho doanh nghiệp thuê lại mảnh đất lớn đó để đầu tư sản xuất nông nghiệp. Doanh nghiệp ở Lâm Đồng hợp tác với các hộ nông dân để sản xuất theo quy trình chung, mà không thay đổi quyền sử dụng đất của mỗi hộ dân cũng là hình thức tập trung ruộng đất.

Sở dĩ phương pháp tích tụ ruộng đất không phát triển là do quy định về hạn điền. Theo chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy, tư duy “người cày có ruộng” chính là lực cản khiến nhà quản lý chưa thể thay đổi hạn điền. Liệu rằng địa chủ mới có xuất hiện nếu hạn điền được nới rộng? Tính “công bằng” sẽ được bảo đảm như thế nào khi một vài nông dân trót bán và không còn thửa ruộng để canh tác.

Bên cạnh đó, đa số nông dân Việt Nam muốn giữ lại cho mình một mảnh ruộng. Họ ly hương nhưng không ly nông và vẫn giữ đất nông nghiệp, coi đó như cuốn “sổ bảo hiểm” cho gia đình. Chuyện người nông dân chuyển sang làm việc trong các nhà máy công nghiệp và bị xa thải khi tròn 35 tuổi là một thực tế. Câu hỏi mưu sinh bằng cách nào khi không còn đất cũng chính là lý do khiến người nông dân quyết giữ mảnh ruộng nhỏ.

Mặc dù vậy, nếu nhiều nông dân có thể chấp nhận cho “vay đất” như ở Thái Bình, việc thành lập “ngân hàng ruộng rất” sẽ là giải pháp cho tình trạng đất đai được sử dụng thiếu hiệu quả. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Trọng Thủy vấn đề dồn điền đổi thửa phải được giải quyết trước. Bởi lẽ ngân hàng sẽ không dám thuê đất khi mỗi nông hộ có tới 3-5 mảnh ruộng nhỏ lẻ.

Tìm một lối thoát cho điệp khúc giải cứu nông sản, GS. Võ Tòng Xuân cho rằng ruộng đất lớn mới chỉ là tiền đề. Trong liên kết “5 nhà” mà Thủ tướng nhấn mạnh, doanh nghiệp được xác định là thành phần đi đầu trong việc đưa nông nghiệp sản xuất hàng hóa hội nhập kinh tế thị trường thế giới và Việt Nam. Với đất có diện tích lớn, nhà doanh nghiệp sẽ đầu tư, sản xuất ra nhiều nông sản chất lượng cao, giá thành hạ. Nông sản khi đó sẽ có đầu ra, doanh nghiệp nhập được nguyên liệu tốt. Thương hiệu nông sản cũng bắt đầu từ đây.

Tất nhiên, sẽ vẫn cần nhiều cuộc “giải cứu” trước khi làm được như thế. Người quản lý cần được giải cứu khỏi ám ảnh về tư duy người cày có ruộng. Nông dân cần được giải cứu khỏi suy nghĩ găm giữ đất đai với nhiều thửa ruộng phân tán. Và cần nhiều cuộc giải cứu nữa cho những ai tung tin đồn gây nhiễu loạn nhân tâm.

Đổi mới nông nghiệp bắt đầu từ cuộc giải cứu này!

Theo Vương Diệu Quân

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Tiến sĩ Trần Đình Thiên chỉ ra lợi thế Việt Nam đang sở hữu như Nhật Bản, Hàn Quốc từng có để 'đi tắt đón đầu' trong cách mạng công nghiệp 4.0

Người Việt Nam đồng thời cũng có lợi thế mà ít người dân đất nước nào có được, đó là đặc điểm về sự sáng tạo.

Trong buổi Diễn đàn Cách mạng Công nghiệp 4.0 tổ chức bởi Bộ Công Thương tuần vừa qua, chúng tôi đã có dịp trao đổi với nhiều chuyên gia về 'Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4' - cụm từ đã được nhắc đến nhiều trên mặt báo thời gian qua - cũng như những gì mà Việt Nam cần chuẩn bị cho công cuộc đón đầu.

Tiến sĩ Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam, cho rằng Việt Nam đang có lợi thế của người đi sau, giống như Nhật Bản, Hàn Quốc cách đây 40 - 50 năm, hay như Singapore, UAE mới đây, từ đó mà có thể đón đầu trong cuộc cách mạng này.

Một cách hình ảnh, Tiến sĩ Trần Đình Thiên so sánh việc đi tắt đón đầu giống như việc người ta xây đô thị ở những khu đất trống, không phải giải tỏa đền bù nên sẽ dễ hơn. Còn ở những chỗ đất 'thơm ngon' mà nhà đã xây nên hết, chi phí chuyển đổi sẽ là rất cao.

Người Việt Nam đồng thời cũng có lợi thế mà ít người dân đất nước nào có được, đó là đặc điểm về sự sáng tạo. Tuy nhiên, sự sáng tạo này được tiến sĩ Thiên gọi là sự 'khác người' - sáng tạo chưa được đặt vào khuôn khổ nên vẫn chưa thể phát huy được giá trị của mình.

"Từ xưa đến nay chúng ta vẫn được đánh giá là thông minh. Người Việt nổi tiếng làm nhiều việc cứ khác người, chọn việc khác người mà làm, cứ “lọ mọ” đi tìm những cái khác người để mày mò sáng tạo. Nhưng trong hoàn cảnh thiếu điều kiện, thiếu cơ sở nên sáng tạo đưa ra toàn những thứ ít xài được" - ông Trần Đình Thiên nhấn mạnh.

Trong cuộc cách mạng công nghiệp thứ 4 lần này, sự sáng tạo khác người trên lại bất ngờ nổi lên như một lợi thế lớn. Theo vị tiến sĩ,trong 10 cái 'khác người' ở trên mà chúng ta chọn, khuyến khích và bồi dường được 1 cái 'khác thường thành được 1 sự sáng tạo thôi thì đã là điều rất đáng quý rồi.

Tất nhiên, sau tất cả thì sự sáng tạo này mới chỉ là yếu tố nguyên liệu đầu vào. Điều khó khăn nhất đối với Việt Nam trước cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang đặt vào đôi tay là cần tạo ra những bước đột phá chưa từng có: "một tầm nhìn vượt trội, những con người khác thường đến mức phi thường".

Một tầm nhìn vượt trội, những con người phi thường đó được gói gọn trong một chữ mà tiến sĩ Trần Đình Thiên nhắc đế là 'điên rồ': "Tôi cho rằng chúng ta cần một chút 'điên rồ' trong cuộc cách mạng này thì mới mong đạt được thành công".

"Chỉ có sự điên rồ này thì tính sáng tạo của người Việt Nam mới được phát huy hết. Khi đó, sự 'khác người' mới có đất sống, chứ không chỉ là toàn tạo ra những thứ không xài được".

Trao đổi với ông Damian Kassabgi - Giám đốc Chính sách công khu vực Châu Á Thái Bình Dương của Uber, vị đại diện cho doanh nghiệp là tiêu biểu trong thời công nghiệp 4.0 cũng tỏ ra đồng ý với quan điểm của ông Thiên.

Ông này lấy ví dụ về một văn hóa đặc trưng của công ty Uber mang tên hustle (nghĩa đen: khiến người khác di chuyển nhanh hơn, nghĩa bóng: cố gắng hết mình để thuyết phục ai đó) để mô tả cho những gì mà người Việt cần làm trong cuộc cách mạng công nghiệp ở phía trước:

"Đó là thứ văn hóa mà bạn sẽ làm mọi cách để đạt được mục tiêu như hustle để thuyết phục tài xế tham gia vào Uber, hustle để làm công ty tăng trưởng nhanh nhất có thể. CEO của Uber là Travis Kalanick cũng từng nói rằng "nếu bạn không có sự hustle ở trong mình, bạn sẽ khó mà kiểm được một người cùng chiến tuyến làm việc hết mình bên cạnh" - ông Kassabgi mô tả.

"Điều tương tự với những gì Việt Nam cần làm trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phía trước. Điều đó giống như văn hóa hustle ở Uber" - vị này kết thúc.

Vượng Lê

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

Cửa hàng cầm đồ 'nhan nhản' khắp cả nước và con số giật mình về tín dụng đen trong nền kinh tế

"70% tín dụng trong nền kinh tế là tín dụng đen chỉ là con số dự đoán. Chúng tôi chỉ dám công bố con số này để đỡ gây sốc cho dư luận" - luật sư Trương Thanh Đức chia sẻ

Hôm nay, tại buổi tạo đàm tổ chức bởi Viện Quản trị Kinh Doanh, Đại học Kinh tế và có nội dung về thị trường cho vay tiêu dùng tại Việt Nam, các chuyên gia đã công bố một số liệu giật mình về tín dụng đen tại Việt Nam: 70% lượng tín dụng trong nền kinh tế là tín dụng đen.

“Đây chỉ là số liệu dự đoán, tuy nhiên nhiều người khẳng định con số còn có thể cao hơn như vậy nhiều. Chúng tôi chỉ dám ước tính số 70% để đỡ gây sốc cho dư luận” – Luật sư Trương Thanh Đức trả lời phỏng vấn.

Tín dụng đen được định nghĩa là các khoản vay phi chính thức trong nền kinh tế. Các vị chuyên gia trong buổi tọa đàm chia thành nhiều nhóm, ví dụ như nhóm tín dụng theo kiểu xã hội đen như trong vụ án Huyền Như chiếm đoạt tới gần 5.000 tỷ trong hệ thống ngân hàng, hay nhóm tín dụng theo kiểu cầm đồ tại các cửa hàng cầm đồ.

Dù là nhóm nào thì các khoản tín dụng đen đều có chung đặc điểm là những khoản vay rất rủi ro: Người đi vay phải chịu lãi suất rất cao, người cho vay phải chấp nhận không đòi được tiền, còn nền kinh tế sẽ tổn thất nặng nề nếu những khoản vay đó có giá trị rất lớn. Luật sư Trương Thành Đức nói với chúng tôi:

“Số cửa hàng cầm đồ của cả nước này thì không biết là có đến bao nhiêu vạn. Theo thống kê, một con phố tại Hà Nội cũng có thể có tới 30 tiệm cầm đồ. Cả thành phố Hà Nội này, dư nợ cầm đồ sẽ chắc chắn lớn hơn toàn bộ dư nợ tài chính. Đó là còn chưa nhắc đến ở vùng sâu vùng xa, cả hợp pháp và bất hợp pháp”.

Còn đối với vay theo kiểu ‘xã hội đen’ như vụ án Huyền Như, vị này lấy ví dụ rằng riêng vụ án này thì tòa đã kết luận người phạm tội phải nộp lại tới 9.000 tỷ đồng. Những trường hợp tín dụng kiểu như vậy có thể vẫn tồn tại trong nền kinh tế và sẽ làm nhân số tín dụng đen lên rất nhiều.

Tổng thể cả nền kinh tế thì chỉ có 7 phần là ‘trên mặt nước’ còn 3 phần vẫn còn ‘dưới tảng băng’. Vì thế, luật sư Trương Thanh Đức cho rằng con số thực sự của tín dụng đen có thể vượt xa hơn mức 70% rất nhiều.

“Quy mô đó (cùa tín dụng đen – PV) chúng ta không thể kiểm soát. Với nền kinh tế thì chúng ta vẫn đang dự đoán là có tới 30% là kinh tế ngầm. Riêng cho vay tín dụng đen thì chúng tôi nói là 70% vẫn là ít, còn con số thực thậm chí có thể lớn hơn nữa”.

Để đối phó với tín dụng đen trong nền kinh tế gây rủi ro cho cả người vay và người cho vay, ngay từ năm ngoái, một cuộc họp kín của ngân hàng nhà nước với các bên liên quan đã được tổ chức nhằm mục đích xây dựng nên hành lang pháp lý liên quan đến vay tiêu dùng giảm bớt tín dụng đen, làm minh bạch thị trường tín dụng.

Theo đó, đã có một vài quy định mới được áp dụng từ ngày 11/1/2017 vừa qua. Tuy nhiên, theo luật sư Trương Thanh Đức, chúng chưa thể có những tác động đáng kể do đây mới là những quy định liên quan đến siết lại, cấp phép, quản trị, tuân thủ các điều kiện an toàn về quản trị…của tổ chức cho vay tiêu dùng hay tổ chức tài chính.

Còn về hợp đồng tín dụng và mảng nghiệp vụ thẩm định khoản vay thì gần như chưa có sự thay đổi lớn. Thậm chí giờ đây, cũng do quy định thay đổi mà vay tiêu dùng còn dễ dàng, lỏng lẻo hơn trước, dễ tạo nên các loại hình tín dụng đen hoặc các khoảng vay rủi ro cao.

"Trước đây, người vay cần chứng minh mục đích sử dụng vốn, khả năng trả nợ. Bây giờ, anh chỉ cần mang hóa đơn thanh toán điện thoại ra, người ta thấy anh này chi trả 1 triệu/tháng thì cho vay tới 5 triệu là điều quá bình thường”.

Vượng Lê

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

Bộ Công Thương: Phá sản doanh nghiệp thua lỗ không đủ điều kiện cổ phần hóa

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam được yêu cầu phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ để khẩn trương hoàn thiện đề án, báo cáo Bộ Công Thương trước ngày 20/5.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh vừa ban hành Chỉ thị số 05/CT-BCT về việc đẩy mạnh công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Công Thương giai đoạn 2017 - 2020.

Về việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước xây dựng kế hoạch, lộ trình sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước trong giai đoạn 2017 - 2020, báo cáo Bộ Công Thương phê duyệt trong tháng 5/2017 theo thẩm quyền hoặc thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Đối với 4 Tập đoàn phải trình đề án tái cơ cấu gồm Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ( PVN ), Tập đoàn Điện lực Việt Nam ( EVN ), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam ( TKV ), Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem), yêu cầu phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ để khẩn trương hoàn thiện đề án, báo cáo Bộ Công Thương trước ngày 20/5/2017.

Tổ chức triển khai công tác cổ phần hóa các đơn vị thành viên theo đúng kế hoạch và tiến độ đã được phê duyệt; tuân thủ các quy định hiện hành về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Đối với những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, tồn đọng tài chính kéo dài, không đủ điều kiện thực hiện cổ phần hóa phải kiên quyết thực hiện sắp xếp, sáp nhập hoặc phá sản theo quy định của Nhà nước.

Chỉ thị cũng cho biết, tăng cường công tác quản lý kiểm tra, giám sát, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn; kiên quyết xử lý các doanh nghiệp thua lỗ, các dự án đầu tư không có hiệu quả, hiệu quả thấp; có cơ chế kiểm soát phù hợp trong việc mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp, tránh lợi ích nhóm, thất thoát vốn và tài sản nhà nước.

Bên cạnh đó, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan trong việc sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp; xử lý nghiêm lãnh đạo các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty, người đại diện vốn nhà nước tại các doanh nghiệp không nghiêm túc thực hiện hoặc thực hiện kém hiệu quả việc sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp và nhiệm vụ được giao trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.

Theo Tâm An

Diễn Đàn Đầu Tư

Đọc tiếp »

Lợi nhuận đầu tư bất động sản tại châu Á - Thái Bình Dương tăng 6,2%

Theo ghi nhận của CBRE, trong quý I/2017, lợi nhuận đầu tư bất động sản của khu vực châu Á - Thái Bình Dương tăng 6,2% so với cùng kì năm ngoái nhờ vào tâm lí tự tin của nhà đầu tư dù tăng trưởng giao dịch không đáng kể so với cùng kì năm ngoái.

Ông Henry Chin, Trưởng Bộ phận Nghiên Cứu CBRE châu Á - Thái Bình Dương cho biết: “Trong khu vực, hiệu suất đầu tư có sự phân cấp theo từng thị trường khác nhau. Thị trường Singapore và Nhật Bản ghi nhận hoạt động đầu tư sôi động nhất. Nhiều nhà đầu tư đang tìm kiếm cơ hội “phản chu kì” tại Singapore, và ba giao dịch dự án văn phòng lớn đã được các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thành công trong quý này. Tại Nhật Bản, các nhà đầu tư có nhiều nhu cầu tìm kiếm các tài sản với lợi nhuận cao hơn tại các thành phố ngoại ô Tokyo, đặc biệt có thể kể đến Yokohama trong quý này".

Trong khi đó, lợi nhuận đầu tư trong quý tại Úc giảm mạnh. Đây được cho là nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm trong giao dịch. Tương tự, lợi nhuận đầu tư trong quý tại Trung Quốc cũng giảm với giá trị giao dịch dưới 250 triệu USD. Các nhà đầu tư đã tìm đến các giao dịch nhỏ hơn tại Trung Quốc, bao gồm các tòa nhà văn phòng nằm ở khu vực ngoài trung tâm tại các thành phố cấp 1.

Theo CBRE, với sự kiểm soát chặt chẽ hơn về dòng vốn đầu tư, đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc đã chậm lại với ít giao dịch giá trị lớn. Một số nhà đầu tư Trung Quốc đã chọn tham gia vào những giao dịch trị giá thấp hơn. Đầu tư ra nước ngoài từ Hồng Kông và Bắc Mỹ đã khởi sắc. Một số quỹ đầu tư bất động sản đã tận dụng vốn để đầu tư tại Nhật Bản, trong khi hai công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Hồng Kông đã mua lại một số tòa nhà văn phòng tại Singapore.

Đối với phân khúc văn phòng, các dự án cao cấp lớn sắp hoàn thiện tại Trung Quốc và Singapore, cùng những ưu đãi cao tại Úc và Seoul dẫn đến việc khách thuê chú trọng vào chất lượng và giá trị khi chuyển văn phòng. Các hoạt động cho thuê được chi phối bởi các ngành công nghệ, truyền thông, viễn thông và các tổ chức tài chính trong nước.

Tại thị trường bán lẻ trong khu vực, tổng quan tình hình cho thuê đã cải thiện. Tuy nhiên, phần lớn các nhà bán lẻ tại châu Á - Thái Bình Dương vẫn cẩn trọng và bày tỏ nhu cầu lớn hơn trước các cơ hội với mức giá hợp lý. Tại Trung Quốc, thị trường hàng cao cấp ghi nhận mức tăng trưởng một con số do sự tiêu thụ hàng cao cấp chủ yếu được gói gọn trong thị trường nội địa.

Nhìn chung, trong quý I/2017, CBRE ghi nhận một số điểm nhấn cụ thể của thị trường bất động sản khu vực châu Á - Thái Bình Dương:

Giá thuê văn phòng hạng A tại Tokyo hiện đang đạt đến mức cao đỉnh điểm, nhưng việc giá thuê tại Sydney và Melbourne tiếp tục tăng và giá thuê tại Singapore sụt giảm nhẹ đã khiến mức tăng trưởng giá thuê văn phòng trong khu vực duy trì ở mức tăng ổn định 0,6 % theo quý.

Phần lớn các thị trường văn phòng tại châu Á - Thái Bình Dương sẽ thu hút khách thuê trong năm 2017. Tại Hồng Kông, giá thuê dự báo của khu vực trung tâm đã được điều chỉnh tăng lên do nhu cầu cải thiện từ các công ty Trung Quốc đại lục. Giá thuê tại Singapore dự đoán sẽ tăng vào thời điểm cuối năm 2017 với nhiều dự án mới đang được triển khai.

Giá thuê bán lẻ trung bình tăng 0,6% so với quý trước, ảnh hưởng bởi Tokyo và tốc độ suy giảm chậm lại tại Hồng Kông.

Ngành hàng ăn uống vẫn chi phối nguồn cầu của thị trường bán lẻ, với các nhãn hiệu nội địa độc lập đang ngày càng năng động hơn. Các ngành hàng hoạt động sôi nổi khác bao gồm vật dụng gia đình, dụng cụ thể thao và câu lạc bộ giải trí.

Giá thuê kho bãi tăng khoảng 0,2 % so với quý trước do tăng trưởng giá thuê tại các thành phố cấp 1 của Trung Quốc và khu vực Thái Bình Dương.

Tại Seoul, sự phát triển của ngành kinh doanh thực phẩm tươi sống trực tuyến đang thúc đẩy nhu cầu về kho vận, trong khi đó tại Singapore đang có nhu cầu về diện tích chứa chất bán dẫn.

Theo Kiều Châu

Diễn Đàn Đầu Tư

Đọc tiếp »

AVR kêu gọi các doanh nghiệp bán lẻ “giải cứu” giá thịt lợn

Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam (đã có thư ngỏ kêu gọi các doanh nghiệp hội viên đẩy mạnh tiêu thụ thịt lợn...

Trước thực trạng nguồn cung lợn hơi đã vượt xa nhu cầu tiêu dùng trong nước, dẫn tới giá thịt lợn hơi lao dốc, chỉ còn khoảng 20.000 đồng/kg, gây thua lỗ nặng cho người chăn nuôi và khó khăn trong việc tiêu thụ, Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam (AVR) đã có thư ngỏ kêu gọi các doanh nghiệp hội viên đẩy mạnh tiêu thụ thịt lợn.

Theo bà Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch AVR kêu gọi các doanh nghiệp hội viên chung tay tháo gỡ những khó khăn trước mắt của ngành hàng này.

Thứ nhất, toàn thể các doanh nghiệp hội viên kinh doanh/chế biến thực phẩm có kế hoạch chủ động, tăng cường thu mua, tổ chức giết mổ cấp đông thịt lợn, dự trữ cho các tháng sắp tới.

Thứ hai, các doanh nghiệp hội viên ưu tiên tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi trong nước, triển khai chương trình khuyến mãi, giảm giá đối với các sản phẩm thịt lợn trên toàn quốc để tăng sức mua trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước có tiềm năng.

Thứ ba, doanh nghiệp hội viên có các giải pháp và phương án phối hợp với các trang trại, cơ sở chăn nuôi và cơ sở giết mổ để giảm bớt khâu trung gian, giảm giá thành và giảm giá bán sản phẩm thịt lợn.

Thứ tư, chú trọng, tăng cường công tác bảo quản, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Thứ năm, thường xuyên cập nhật giá theo tình hình biến động của thị trường và linh hoạt điều chỉnh tương ứng để có thể tiêu thụ lượng lớn thịt lợn, giúp bảo vệ lợi ích người chăn nuôi cũng như đảm bảo giá bán ra là tốt nhất, có lợi nhất cho người tiêu dùng.

Cuối cùng, bà Loan cũng kêu gọi các doanh nghiệp hội viên chủ động, tích cực tham gia xây dựng, đóng góp ý kiến, đưa ra giải pháp trước mắt cũng như lâu dài đối với ngành chăn nuôi.

“AVR rất mong nhận được sự đồng hành của các doanh nghiệp hội viên với ngành chăn nuôi trong giai đoạn khó khăn hiện nay, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đóng góp tích cực vào việc xây dựng hệ thống bán lẻ Việt Nam có uy tín tại thị trường nội địa nói riêng và góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam nói chung", bà Đinh Thị Mỹ Loan nhấn mạnh.

Theo Kiều Linh

VnEconomy

Đọc tiếp »

Khủng hoảng giá lợn hơi do... dân tăng đàn xuất sang Trung Quốc

Nhiều giải pháp giải cứu thịt lợn tạm thời và lâu dài đã được Bộ Công Thương đề ra...

Chiều ngày 27/4, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã triệu tập cuộc họp khẩn tiếp tục tìm các giải pháp cấp bách và lâu dài để tháo gỡ câu chuyện đầu ra và giải bài toán lợn hơi rớt giá.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho rằng việc giải cứu đàn lợn tồn trong dân là việc làm cấp bách. “Khi hàng nghìn hộ dân điêu đứng vì giá lợn hơi giảm, lượng thịt lợn tồn không có đầu ra thì đây không còn là vấn đề riêng của Bộ Nông nghiệp nữa mà cần có sự vào cuộc của tất cả các bộ ngành, trong đó có Bộ Công Thương”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.

Do người dân tăng quy mô đàn

Tại cuộc họp, các ý kiến đều cho rằng nguyên nhân cốt lõi nhất dẫn đến những khó khăn trong tiêu thụ của ngành chăn nuôi lợn thời gian qua là do các hộ nông dân tăng đàn để xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc khiến nguồn cung thịt lợn nội địa vượt quá nhu cầu trong nước.

Khi Trung Quốc tăng cường giám sát, phòng chống hoạt động nhập khẩu hàng hóa (trong đó có lợn sống) trái phép qua biên giới đất liền, hoạt động xuất khẩu lợn sống qua biên giới sang Trung Quốc ngay lập tức bị ảnh hưởng, càng gây sức ép lên giá thịt lợn trong nước.

Vấn đề quy hoạch ngành chăn nuôi của Việt Nam cũng đang tồn tại nhiều bất cập. Như nhiều mặt hàng nông sản khác, mặt hàng lợn thịt được chăn nuôi khá phân tán, quy mô nhỏ lẻ, hình thức chăn nuôi truyền thống, kiểu tận dụng với quy mô nhỏ lẻ đang tồn tại ở hầu khắp các tỉnh trong cả nước, chiếm khoảng 65-70% về đầu con nên tiêu thụ tại các vùng miền phần lớn phụ thuộc vào các tiểu thương mua gom và tự giết mổ bán cho các tiểu thương tại các chợ.

Chính điều này gây khó khăn lớn cho việc tổ chức lưu thông phân phối cũng như quản lý hoạt động của các thương nhân nhỏ lẻ ở khâu trung gian.

Hầu hết các hộ chăn nuôi đều chăn nuôi không theo tiêu chuẩn, quy chuẩn nên khi nguồn cung dư thừa rất khó để kết nối tiêu thụ vào các kênh lớn như các doanh nghiệp chế biến, giết mổ tập trung và các siêu thị.

Sản xuất tự phát nên không có hợp đồng bao tiêu dẫn tới giá bấp bênh... Bên cạnh đó, chăn nuôi phần lớn nhỏ lẻ mang tính tự phát không theo quy hoạch, không tổ chức chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ.

Trong bối cảnh đó, Bộ Công Thương đã có công văn hoả tốc gửi các doanh nghiệp chế biến, giết mổ, kinh doanh thịt lợn đề nghị các doanh nghiệp phối hợp với sở công thương, sở nông nghiệp và phát triển nông thôn kết nối tiêu thụ mặt hàng lợn thịt; tăng lượng thu mua, giết mổ, chế biến, cấp đông.

Ngoài ra, trước thực trạng giá thịt lợn tại hệ thống phân phối của các siêu thị và ngoài thị trường đang chênh lệch rất lớn so với giá lợn hơi thu mua từ các hộ, trang trại, Bộ Công Thương đã có công văn hoả tốc gửi hệ thống trung tâm thương mại, siêu thị chung tay chia sẻ.

Bộ Công Thương cho biết, báo cáo sơ bộ giá bán thịt lợn ngoài thị trường đã giảm so với trước ngày 20/4/2017 khoảng 5.000-10.000 đồng/kg; nhiều siêu thị như Co.op mart, Big C, Vissan đã giảm giá bán thịt lợn trong toàn hệ thống từ 5-10%, có mặt hàng giảm 20% để kích thích nhu cầu tiêu dùng của người dân, đồng thời giữ nguyên giá thu mua để giảm bớt khó khăn cho người chăn nuôi.

Tại Tp. HCM, giá bán thịt lợn trong chương trình bình ổn thị trường đã được điều chỉnh, giá áp dụng từ sáng 27/4/2017 dao động từ 63.000-77.500 đồng/kg, cá biệt một số loại sản phẩm đặc thù có giá 87.500 đồng/kg như thịt nạc dăm, nạc vai…

Lên chương trình “giải cứu” thịt lợn

Bộ Công Thương đưa ra 3 giải pháp tạm thời cho vấn đề thịt lợn hiện nay.

Thứ nhất, Bộ sẽ chỉ đạo sở công thương phối hợp với sở nông nghiệp và phát triển nông thôn các địa phương làm việc với doanh nghiệp chế biến, giết mổ, phân phối rà soát chi phí trong các khâu nhằm tiết giảm các chi phí trung gian, giảm sự chênh lệch giữa giá thu mua và giá bán lẻ.

Đồng thời tổ chức chương trình kết nối giữa các doanh nghiệp và các vùng sản xuất, tăng cường thu mua chế biến, cấp đông nhằm hỗ trợ tiêu thụ lợn thịt cho thị trường.

Thứ hai, chỉ đạo các sở công thương kêu gọi các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn thị trường ký kết hợp đồng tiêu thụ lợn thịt với các trang trại chăn nuôi để tạo nguồn cung ổn định phục vụ công tác bình ổn và bảo đảm thu mua lợn thịt cho người chăn nuôi với giá hợp lý.

Thứ ba, xem xét việc kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước có chính sách hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp chế biến, giết mổ, kinh doanh thịt lợn tăng lượng thu mua và trữ đông thịt lợn chăn nuôi trong nước...

Tuy nhiên, về lâu dài, Bộ Công Thương rằng cần phải có quy hoạch, kiểm soát chặt chẽ tổ chức sản xuất, chăn nuôi theo đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn của các doanh nghiệp thu mua chế biến lớn trong nước và đáp ứng yêu cầu của các nước nhập khẩu để phối hợp, hỗ trợ cho Bộ Công Thương trong việc đàm phán mở rộng thị trường xuất khẩu chính ngạch.

"Trên thực tế, không phải khi xảy ra hiện tượng thịt lợn rớt giá, Bộ Công Thương mới bàn giải pháp giải cứu. Mà trước đó Bộ đã nhiều lần kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp, đồng thời đưa ra cảnh báo về nguy cơ lợn rớt giá, tồn kho và dự báo về khả năng cung vượt cầu”, báo cáo cho hay.

Theo đó, trong các cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 2, 4, 5 của năm 2016, Bộ Công Thương đã đề cập đến vấn đề chăn nuôi lợn.

Theo Bạch Dương

VnEconomy

Đọc tiếp »

Gần 11 tỷ USD vốn FDI đăng ký vào Việt Nam sau 4 tháng

Nhật Bản đã chính thức trở lại top 3 nhà đầu tư FDI lớn nhất tại Việt Nam...

Báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy, tính từ đầu năm nay đến 20/4, cả nước có 734 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng ký 4,88 tỷ USD, giảm 4% so với cùng kỳ năm 2016.

Có 345 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 4,36 tỷ USD, tăng 241,8% so với cùng kỳ và 1.687 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 1,35 tỷ USD, tăng 106,8% so với cùng kỳ.

Tính chung trong 4 tháng đầu năm 2017, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần là 10,95 tỷ USD, tăng 40,5% so với cùng kỳ.

Trong 4 tháng đầu năm 2017, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đứng đầu với tổng số vốn là 7,36 tỷ USD, chiếm 69,53% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 4 tháng đầu năm.

Lĩnh vực khai khoáng đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư là 1,28 tỷ USD, chiếm 12% tổng vốn đầu tư.

Đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký là 546,68 triệu USD, chiếm 5,16% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Có 83 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Hàn Quốc đứng vị trí thứ nhất với tổng vốn đầu tư là 4,05 tỷ USD, chiếm 38,25% tổng vốn đầu tư. Nhật Bản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,85 tỷ USD, chiếm 17,54% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Singapore đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,1 tỷ USD, chiếm 10,43% tổng vốn đầu tư.

Nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 56 tỉnh thành phố, trong đó Bắc Ninh là địa phương thu hút nhiều vốn nhất trong 4 tháng, với tổng số vốn đăng ký là 2,7 tỷ USD, chiếm 25,51% tổng vốn đầu tư.

Bình Dương đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký là 1,53 tỷ USD, chiếm 14,48% tổng vốn đầu tư. Kiên Giang đứng thứ ba với tổng số vốn đăng ký gần 1,28 tỷ USD chiếm 8,77% tổng vốn đầu tư.

Có một số dự án lớn được cấp phép trong 4 tháng đầu năm 2017, như:

Dự án Samsung Display Việt Nam điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 2,5 tỷ USD tại Bắc Ninh.

Dự án đường ống dẫn khí lô B - Ô Môn, cấp phép ngày 20/4/2017, tổng vốn đầu tư đăng ký 1,27 tỷ USD do nhà đầu tư Nhật Bản liên doanh với Petro Vietnam và PVGas Việt Nam đầu tư.

Dự án nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern (Việt Nam) tại Bình Dương, được nhà đầu tư Đài Loan điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 485,8 triệu USD.

Dự án nước giải khát Coca-Cola Việt Nam tại Hà Nội điều chỉnh tăng vốn đầu tư 319,8 triệu USD.

Dự án khu công nghiệp Việt Nam Singapore 3, tổng vốn đầu tư 284,75 triệu USD do Singapore đầu tư tại Bình Dương với mục tiêu đầu tư, xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp.

Theo Bạch Dương

VnEconomy

Đọc tiếp »

HSBC: Thế hệ sau 8x có cái nhìn thiếu thực tế về kế hoạch nghỉ hưu của bản thân

Phần lớn những người trẻ, dù còn có cái nhìn thiếu thực tế đối với tương lai hưu trí nhưng đã bắt đầu tiết kiệm với độ tuổi tiết kiệm trung bình là 26 tuổi.

Kết quả khảo sát hơn 18.000 người, ở 16 quốc gia của HSBC mới đây cho thấy những người trẻ kì vọng nghỉ hưu sớm hơn so với những người trong độ tuổi lao động thuộc các thế hệ trước đó.

Độ tuổi trung bình mà họ dự định về hưu là 59 tuổi, sớm hơn 2 năm so với những người còn lại trong độ tuổi lao động với dự định nghỉ hưu ở tuổi 61.

Bên cạnh đó, chỉ có 10% những người trẻ dự tính đi làm sau 65 tuổi – ngay cả khi thế hệ của họ đang đối mặt với các áp lực tài chính chưa từng có và độ tuổi nghỉ hưu theo quy định của nhà nước có xu hướng tiếp tục tăng lên trên toàn cầu.

Chưa kể, mặc dù có đến 59% những người trẻ đồng ý rằng họ sẽ sống thọ hơn và cần phải lo liệu cho bản thân lâu hơn các thế hệ trước, nghỉ hưu sớm vẫn là suy nghĩ phổ biến trong thế hệ trẻ.

“Hầu hết những người thuộc thế hệ trẻ (sinh năm 1980 – 1997) có cái nhìn thiếu thực tế về tương lại hưu trí của bản thân”, HSBC nhận xét.

Ngược với cái nhìn thiếu thực tế của giới trẻ, thì triển vọng hưu trí của những người trẻ được cho là ảm đạm hơn bất kỳ thế hệ nào. Chỉ 10% những người tham gia khảo sát nghĩ rằng thế hệ trẻ đang có vị thế thuận lợi nhất để có được một tương lai hưu trí an nhàn, trong khi 42% cho rằng vị thế đó thuộc về những người sinh trưởng trong thời bùng nổ dân số (Baby Boomers).

Trong cuộc khảo sát, HSBC cũng đề cập đến vai trò của quỹ hưu trí. Theo đó, có 37% những người trong độ tuổi lao động cho biết họ trông cậy vào quỹ hưu trí của nhà nước và BHXH để hỗ trợ trang trải cho thời kì về hưu của mình.

Nhưng trong bối cảnh già hóa dân số và tình trạng căng thẳng ngân sách tại nhiều quốc gia, 65% số người được khảo sát lo lắng rằng sự suy giảm của quỹ hưu trí/ BHXH sẽ ảnh hưởng đến tương lai hưu trí của họ. Có 24% nghĩ rằng các quỹ hưu trí của nhà nước sẽ không còn khi họ về hưu.

Ngoài ra, có 77% những người thuộc độ tuổi lao động tin rằng những người về hưu sau này sẽ phải chi trả nhiều hơn cho các chi phí y tế.

Trước tình hình đó, Việt Nam cũng bắt đầu cảm nhận được sức nóng của vấn đề. Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, người lao động đang có xu hướng nghỉ hưu sớm mặc dù tuổi nghỉ hưu chính thức của Việt Nam hiện đang thấp hơn nhiều nước trên thế giới.

Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam ngày càng tăng, trung bình đạt 75.6 – cao thứ hai trong khu vực ASEAN, chỉ xếp sau Singapore (82.6) và cao hơn Malaysia (74.7).

Nghỉ hưu sớm trong bối cảnh tuổi thọ ngày càng tăng đang tạo ra một sức ép lớn lên quỹ BHXH. Theo dự báo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, quỹ bảo hiểm xã hội của nhà nước sẽ tiến tới mức thu bằng chi vào năm 2020 và sẽ rơi vào tình trạng chi vượt thu, phải cần đến sự trợ giúp từ ngân sách chính phủ vào năm 2037 nếu tuổi nghỉ hưu vẫn được giữ nguyên như hiện tại.

Mặc dù cái nhìn của thế hệ trẻ đối với tương lai hưu trí còn thiếu tính thực tế, phần lớn trong số họ (68%) đã bắt đầu tiết kiệm cho hưu trí, với độ tuổi tiết kiệm trung bình là 26 tuổi.

Hiện BĐS được xem là một kênh đầu tư tốt gữa bối cảnh kinh tế nhiều biến động. Khoảng 47% những người thuộc độ tuổi lao động nghĩ rằng đầu tư vào BĐS sẽ mang lại lợi nhuận khả quan nhất, 38% chọn hình thức tiết kiệm tiền, 29% chọn đầu tư vào cổ phiếu, chứng khoán, 22% chọn bảo hiểm hưu trí cá nhân, 20% chọn gói hưu trí do công ty cung cấp, và 13% chọn trái phiếu chính phủ/doanh nghiệp.

So với các thế hệ đi trước, những người trẻ khi đầu tư có xu hướng chấp nhận rủi ro nhiều hơn để thúc đẩy gia tăng tiết kiệm hưu trí, với 39% người trẻ cho biết họ sẵn sàng đầu tư mạo hiểm để đạt được ổn định về tài chính, so với 33% người thuộc thế hệ X và 22% người thuộc thế hệ thời bùng nổ dân số.

Có 65% những người trẻ cho biết họ sẵn sàng cắt giảm chi tiêu cho mục tiêu tiết kiệm, so với 59% thuộc thệ hệ X và 54% thuộc thế hệ thời bùng nổ dân số.

Trong khi đó có 61% những người trẻ cho biết họ chủ động tìm kiếm thông tin để được hướng dẫn ra các quyết định về tài chính, so với 56% thuộc thế hệ X và 50% thuộc thế hệ thời bùng nổ dân số. Một nửa trong số họ (51%) chủ động luân chuyển dòng tiền để đạt được lợi nhuận tốt hơn, so với 45% thuộc thế hệ X và 39% thuộc thế hệ thời bùng nổ dân số.

Báo cáo của HSBC cũng đồng thời chỉ ra 4 bước giúp lập kế hoạch nhằm cải thiện tình trạng tài chính khi về hưu:

1. Có cái nhìn thiết thực về tương lai hưu trí

Tiết kiệm sớm hơn và nhiều hơn để đảm bảo bạn có sự chuẩn bị chu đáo cho thời kì hưu trí an nhàn và kéo dài. Sự chuẩn bị này phải bao gồm dự trù các chi phí y tế có thể cần đến lúc tuổi già.

2. Cân nhắc các nguồn tài chính khác nhau

Cân bằng các hình thức tiết kiệm và đầu tư cho hưu trí để phân tán rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Cần suy nghĩ thực tế khi đặt ra các kì vọng lợi nhuận từ đầu tư.

3. Lập kế hoạch ứng phó với những sự kiện bất ngờ

Những sự kiện bất ngờ có thể tác động lớn đến quỹ hưu trí của bạn. Khi lập kế hoạch hưu trí cần phải tính đến các tình huống xấu nhất và cân nhắc hình thức bảo hiểm phù hợp để đảm bảo mục tiêu tài chính dành cho hưu trí.

4. Tận dụng sự phát triển công nghệ

Tận dụng công nghệ mới để lên kế hoạch hưu trí dễ dàng hơn. Các công cụ trực tuyến có thể giúp bạn hiểu được các nhu cầu tài chính cho độ tuổi hưu trí và theo dõi tiến triển.

Theo Nam Dương

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Hà Nội, TP.HCM nhập siêu hàng tỷ USD

Theo thông tin mới nhất từ Tổng cục Hải quan, hết quý I/2017, 3 địa phương bị thâm hụt thương mại là Hà Nội, TP.HCM và Bắc Ninh.

Trong đó, Hà Nội có mức nhập siêu lớn nhất. Hết quý I, tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu của địa phương này là 2,697 tỷ USD và nhập khẩu là 6,882 tỷ USD dẫn đến con số nhập siêu lên đến 4,185 tỷ USD.

Cùng với Hà Nội, đầu tàu kinh tế của cả nước là TP.HCM cũng có mức thâm hụt thương mại 1,619 tỷ USD (xuất khẩu 7,982 tỷ USD và nhập khẩu 9,601 tỷ USD).

Việc nhập siêu của Hà Nội và TP.HCM diễn ra nhiều năm và là điều dễ hiểu khi đây là 2 địa bàn nhập khẩu hàng hóa quan trọng của cả nước, nhất là hàng tiêu dùng.

Tuy nhiên, việc hâm hụt thương mại của Bắc Ninh lại là diễn biến đáng chú ý. Bởi cùng kỳ 2016, địa phương này đang xuất siêu 1,179 tỷ USD, nhưng năm 2017 lại đảo chiều. Cụ thể, quý I/2017, Bắc Ninh đang nhập siêu 577 triệu USD.

Liên quan đến vấn đề này, ngày 28/4, trao đổi qua điện thoại với phóng viên Báo Hải quan, ông Vũ Đức Quyết- Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bắc Ninh cho biết, việc nhập siêu trong quý I vừa qua xuất phát từ hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ các dự án đầu tư trên địa bàn, nhất là việc mở rộng dự án tại Bắc Ninh của tập đoàn Samsung.

Ngoài các thông tin đáng chú ý trên, theo Tổng cục Hải quan, trong quý I vừa qua, hai địa phương trong Top 5 về xuất nhập khẩu của nước ta là Thái Nguyên và Bình Dương vẫn duy trì được trị giá xuất siêu.

Trong đó, Thái Nguyên xuất siêu 1,671 tỷ USD; Bình Dương xuất siêu 1,039 tỷ USD.

Theo Thái Bình

Báo hải quan

Đọc tiếp »

Nhiều chính sách, quy định mới có hiệu lực từ tháng 5/2017

Nhiều chính sách, quy định mới về kinh tế - xã hội có hiệu lực từ tháng 5/2017...

Phạt cả người phát tờ rơi và người quảng cáo, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản, điều kiện trái phiếu chính phủ được mua lại trước ngày đáo hạn…là những chính sách, quy định mới có hiệu lực từ tháng 5/2017.

Phát tờ rơi phạt đến 500.000 đồng

Nghị định 28/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo, có hiệu lực thi hành từ ngày 5/5 quy định: phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 - 500.000 đồng đối với hành vi phát tờ rơi quảng cáo làm ảnh hưởng đến mỹ quan, trật tự an toàn giao thông, xã hội.

Chính phủ cũng quyết định phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với người có sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo trên tờ rơi làm ảnh hưởng đến mỹ quan, trật tự an toàn giao thông, xã hội.

Xả thải sai quy định phạt đến 120 triệu đồng

Theo Nghị định 33/2017/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 20/5/2017 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản, mức tăng mức phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 50 triệu đồng lên mức phạt từ 100 triệu đồng đến 120 triệu đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau:

- Xả nước thải vào nguồn nước không đúng vị trí, tọa độ quy định trong giấy phép.

- Xả nước thải vào nguồn nước không đúng chế độ, phương thức quy định trong giấy phép.

Ngoài ra, Nghị định cũng quy định tăng mức phạt với một số vi phạm trong bảo vệ nguồn nước như phạt tiền từ 10 - 15 triệu đồng đối với hành vi quản lý, vận hành công trình gây thất thoát, lãng phí nước (mức phạt hiện hành là 6 -10 triệu đồng).

Ngoài ra, theo Nghị định 41/2017/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản; lĩnh vực thú y, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi; quản lý rừng; phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, có hiệu lực từ 20/5 quy định: phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với chủ vật nuôi nếu không chấp hành việc tiêm phòng vaccine dại cho chó nuôi; Sử dụng thuốc thú y không có trong danh mục thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam hoặc chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép để phòng bệnh, chữa bệnh cho động vật...

Nộp phí sử dụng đường bộ không cần dừng xe

Quyết định số 07/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức điện tử tự động không dừng; có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/5 quy định: phương tiện giao thông đường bộ thuộc đối tượng chịu giá dịch vụ sử dụng đường bộ phải được gắn thẻ đầu cuối.

Việc gắn thẻ đầu cuối phải được thực hiện tại các đơn vị đăng kiểm xe cơ giới, các đại lý do nhà cung cấp dịch vụ thu giá ủy quyền. Chủ phương tiện không phải trả chi phí gắn thẻ đầu cuối cho lần lắp đặt đầu tiên; khi thẻ bị mất, hỏng, chủ phương tiện được gắn thẻ đầu cuối mới và phải trả chi phí cho nhà cung cấp dịch vụ.

Điều kiện trái phiếu chính phủ được mua lại trước ngày đáo hạn

Theo Thông tư 22/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn việc mua lại trái phiếu Chính phủ tại thị trường trong nước, có hiệu lực từ ngày 1/5 quy định: mua lại trái phiếu Chính phủ là việc Kho bạc Nhà nước mua lại trái phiếu trước ngày trái phiếu đáo hạn. Trái phiếu được mua lại phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: Là loại trái phiếu do Kho bạc Nhà nước phát hành và chưa đến ngày đáo hạn; Không bị ràng buộc trong các quan hệ về giao dịch đảm bảo kể từ thời điểm đăng ký bán lại trái phiếu của chủ sở hữu trái phiếu.

Ngoài ra, Thông tư 22 còn quy định mức lãi suất mua lại trái phiếu Chính phủ, trong đó nêu rõ Bộ Tài chính quy định khung lãi suất tối thiểu mua lại trái phiếu cho từng thời kỳ hoặc cho từng đợt mua lại trái phiếu.

Căn cứ vào khung lãi suất tối thiểu tại quy định trên, Kho bạc Nhà nước lựa chọn và quyết định lãi suất mua lại đối với từng đợt mua lại trái phiếu.

Sử dụng mỗi chất cấm trong chăn nuôi phạt 100 triệu đồng

Đây là quy định mới được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 41/2017/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản; lĩnh vực thú y, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi; quản lý, phát triển, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.

Theo đó, từ ngày 20/5/2017, Nghị định này quy định mức xử phạt đối với hành vi sử dụng mỗi chất cấm trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản thì sẽ bị phạt tiền tối đa đến 100 triệu đồng. Cụ thể phạt tiền từ 70 đến 100 triệu đồng đối với hành vi sử dụng mỗi chất cấm trong sản xuất, gia công và kinh doanh thức ăn chăn nuôi; đồng thời đình chỉ hoạt động từ 6 đến 12 tháng (mức hiện tại từ 1 đến 3 tháng).

Đồng thời, phạt tiền từ 40 đến 50 triệu đồng đối với hành vi vận chuyển, kinh doanh, thu gom, lưu giữ, giết mổ động vật, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật chứa chất cấm sử dụng trong chăn nuôi.

Theo Bảo Quyên

VnEconomy

Đọc tiếp »

Vì sao Singapore hút nhân tài nhất châu Á?

Theo Chỉ số cạnh tranh tài năng toàn cầu của INSEAD mới được công bố, Singapore đứng thứ 2 toàn cầu về năng lực cạnh tranh nhân lực, chỉ sau Thụy Sĩ và đứng số một tại châu Á.

Đây là chỉ số đánh giá năng lực thu hút, phát triển và giữ chân nhân tài của một quốc gia. Các nước có xếp hạng cao đều sở hữu chính sách việc làm linh hoạt, hệ thống giáo dục chất lượng và năng lực công nghệ cao.

Singapore và Australia là 2 đại diện của khu vực châu Á – Thái Bình Dương có mặt trong Top 10.

Theo Bloomberg, Singapore chủ trương xây dựng nền kinh tế theo hướng trở thành trung tâm công nghệ của khu vực. Chính phủ nước này có chính sách giúp các doanh nghiệp mới tiếp cận với công nghệ mới và hỗ trợ người lao động nâng cao tay nghề.

Nước này cũng thúc đẩy mô hình tự động hóa với các công việc cần ít kỹ năng như quét dọn, vệ sinh.

“Công nghệ số sẽ giúp các nền kinh tế như Singapore vươn lên bằng cách tạo ra đội ngũ nhân tài, công ty mang tầm quốc tế”, Su-Yen Wong - CEO của Viện quản lý nhân lực có trụ sở tại Singapore cho biết.

Các nền kinh tế lớn nhất châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ có xếp hạng toàn cầu khá thấp, lần lượt là 22, 54 và 92.

“Thách thức lớn nhất cho Trung Quốc và Ấn Độ nằm ở khả năng thu hút nhân tài, đồng thời họ cũng phải đối mặt với tình trạng chảy máu chất xám”, Bruno Lanvin - Giám đốc điều hành của INSEAD cho biết.

Trong khi đó, Malaysia xếp thứ 28 toàn cầu, thứ hạng cao nhất trong nhóm nước thu nhập trên trung bình nhờ chính sách cởi mở với nguồn nhân lực nước ngoài, vượt qua các nền kinh tế giàu có hơn như Hàn Quốc, Tây Ban Nha và Italy.

Việt Nam đứng thứ 86 trong danh sách này.

Theo Đ.N

Doanh nhân Sài Gòn

Đọc tiếp »

Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng nhẹ 4 tháng đầu năm

Theo công bố của Tổng cục Thống kê, tính chung 4 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn so mức tăng của cùng kỳ năm 2016 nhưng cao hơn mức tăng 4,2% của quý I năm nay.

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tháng 4 ước tính tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành khai khoáng giảm 5,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,9%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,5%.

Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,2%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,3%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,3%; ngành khai khoáng giảm 9,7%.

Một số ngành có chỉ số sản xuất 4 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước là sản xuất kim loại tăng 47,5%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 13,3%; dệt tăng 12,5%; sản xuất xe có động cơ tăng 10,9%...

Một số ngành có mức tăng thấp là sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 6,4%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 4,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 4,2%...

Một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn là Hải Phòng tăng 20,4%, Thái Nguyên tăng 17,7%, Đà Nẵng tăng 12,1%, Hải Dương tăng 9%, Bình Dương tăng 8%, Đồng Nai tăng 7,4%, Thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,1%, Hà Nội tăng 5,9%, Quảng Nam tăng 5,3%...

Tổng cục Thống kê cũng cho biết, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thời điểm 1/4 tăng 12,7% so với cùng thời điểm năm 2016 (cùng kỳ năm trước tăng 8,9%).

Ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn mức tăng chung là sản xuất xe có động cơ tăng 158,9%, chủ yếu do Công ty ôtô Trường Hải giảm mạnh sản lượng tiêu thụ; sản xuất kim loại tăng 54,5%; sản xuất đồ uống tăng 45,4%; sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại (chủ yếu là xi măng) tăng 39,7%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 32,8%.../.

Theo PV

Chinhphu.vn

Đọc tiếp »

Đại diện Bộ Tài Chính: Siêu ủy ban theo mô hình doanh nghiệp sẽ 'vẹn cả đôi đường', nhưng làm sao để các 'ông to' Điện, Than...chịu bị quản lý?

Mô hình doanh nghiệp hứa hẹn sẽ tập trung vào những mục tiêu mà Nhà nước quan tâm. Đồng thời, các Bộ cũng sẽ ‘rảnh tay’ để thực hiện chức năng của mình là công việc giám sát quản lý tốt hơn.

Vừa qua, hội thảo “Mô hình quả lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trong tiến trình tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam” đã được tổ chức tại Hà Nội. Trong buổi hội thảo, các chuyên gia đã đưa ra những quan điểm của mình về Siêu Ủy Ban cũng như một mô hình hợp lý mà tổ chức này có thể tồn tại.

Hiện đang có 2 mô hình được cân nhắc.

Mô hình 1: Cơ quan chuyên trách là cơ quan quản lý nhà nước. Theo đó, sẽ thành lập một cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ làm nhiệm vụ quản lý sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp với tên gọi là Ủy ban quản lý sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Mô hình 2: Cơ quan chuyên trách là doanh nghiệp. Theo đó, thành lập một DNNN làm nhiêm vụ quản lý và đầu tư kinh doanh vốn nhà nước, trên cơ sở nâng cấp SCIC, giao thêm nhiệm vụ quyền hạn và nâng cao địa vị pháp lý để thực hiện nhiệm vụ này.

2 mục tiêu mà Chính phủ đạt được

Trao đổi với chúng tôi, ông Đặng Quyết Tiến, Phó Cục trưởng Cục Tài Chính Doanh Nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính nhấn mạnh rằng trước hết, một Siêu Ủy Ban được ra đời là điều cần thiết ngay lúc này.

Theo vị này, dù là theo mô hình nào, Siêu Ủy Ban này cũng sẽ và cần đạt được 2 mục tiêu, cũng vốn là 2 bất cập về quản lý vốn Nhà nước đang hiện hữu. Ông Tiến nói:

“Thứ nhất, đó là tách được chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức năng sở hữu nhà nước. Các bộ trưởng, các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Tài chính chúng tôi sẽ được chuyên tâm hơn trong việc nghiên cứu, ban hành thực thi chính sách, kiến tạo cho doanh nghiệp phát triển, đảm bảo được quyền lợi bình đẳng của các doanh nghiệp…

Vấn đề thứ hai là tách được quản lý hành chính và quản trị doanh nghiệp tại các nơi có vốn Nhà nước. Đây là hai mục tiêu mà cả Đảng và Nhà nước đều rất quan tâm”.

Từ trước đến nay, chúng ta đã thử nhiều cách để quản lý vốn Nhà nước. Tuy nhiên, sau đó thì các mô hình đều đã bộc lộ điểm yếu của mình. Học từ những thất bại này, yêu cầu đặt ra với Siêu Ủy Ban là phải làm sao để quản lý vốn Nhà nước mà không làm tăng các đầu mối, không tăng các thủ tục hành chính để doanh nghiệp không phải xin cho, không tăng chi ngân sách…

Một doanh nghiệp quản lý vốn sẽ thực hiện tốt nhất mục tiêu 'rút' vốn Nhà nước khỏi nền kinh tế

Khi được hỏi một mô hình theo kiểu Ủy ban trực tiếp trực thuộc Chính phủ hay một doanh nghiệp thì sẽ hiệu quả hơn, hầu hết các chuyên gia đều nghiên về phương án số 2.

Theo ông Đặng Quyết Tiến, Phó Cục trưởng Cục Tài Chính Doanh Nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính thì mô hình Ủy ban trực thuộc Nhà nước cũng như một doanh nghiệp đều có thế mạnh riêng của mình.

“Tuy nhiên người ta cho rằng mô hình doanh nghiệp là tốt nhất, bởi vì doanh nghiệp sẽ lời ăn lỗ chịu, không ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước”. Nhìn từ con mắt của Bộ Tài chính, ông Tiến cũng ủng hộ mô hình doanh nghiệp do nó “tách bạch quản lý và hành chính. Bộ Tài chính chúng tôi không vướng víu gì về hành chính thì có thể làm tốt hơn mặt hành chính”.

Trao đổi ngoài lề với chúng tôi, Thứ trưởng thường trực Bộ Tài chính Nguyễn Công Nghiệp cũng thể hiện quan điểm nghiêng về mô hình doanh nghiệp, bởi lẽ “mô hình này phù hợp với tính chất, đặc điểm và yêu cầu của kinh tế thị trường, xóa được can thiệp hành chính vào quản lý vốn Nhà nước”.

Điều quan trọng hơn, khi so sánh giữa 2 mô hình đang được bàn thảo thì rõ ràng một Ủy ban Nhà Nước – mô hình chẳng khác nào một cơ quan chủ quản quản lý vốn Nhà nước vốn vẫn tồn tại từ trước đến nay – thể hiện nhiều bất cập so với một doanh nghiệp.

“Đồng thời, một doanh nghiệp xóa bỏ được điều lâu nay mà chúng ta vẫn nói là mô hình cơ quan chủ quản. Nếu vẫn còn mô hình cơ quan Nhà nước (như phương án Ủy ban Nhà nước – PV) thì nó vẫn còn mang tính chất chủ quản”.

Một vấn đề về quản lý vốn Nhà nước được vị Thứ trưởng đề cập đến là tuy theo chủ trương thì đầu tư của khu vực Nhà nước trong nền kinh tế cần phải giảm, qua đó để dành khoảng trống cho các khu vực kinh tế khác thì thực tế, các báo cáo đều chỉ ra rằng vốn đầu tư, giá trị tài sản Nhà nước lại càng tăng lên.

Ông Nghiệp nhận định “các doanh nghiệp Nhà nước và có vốn đầu tư Nhà nước đầu tư chiếm một tỷ trong lớn trong các yếu tổ đầu vào, khoảng 60%. Tỷ trọng nhóm doanh nghiệp này trong nền kinh này lên đến trên 30% GDP cũng là lớn”.

Như vậy, điều quan trọng đối với quản lý vốn Nhà nước lúc này là làm sao để vốn được thoái khỏi nền kinh tế một cách mạnh mẽ, chứ không phải việc hướng tới mục tiêu hàng năm xem có bao nhiêu doanh nghiệp được cổ phần hòa. Điều đặc biệt, theo vị Thứ trưởng thường trực Bộ Tài chính thì chỉ có mô hình doanh nghiệp mới có thể thực hiện tốt mục tiêu trên.

Bài toán vị thế: Làm sao mà các 'ông to' điện, than cho một doanh nghiệp quản lý ?

Mô hình doanh nghiệp hứa hẹn sẽ tập trung vào những mục tiêu mà Nhà nước quan tâm. Đồng thời, các Bộ cũng sẽ ‘rảnh tay’ để thực hiện chức năng của mình là công việc giám sát quản lý tốt hơn.

Tuy nhiên, so với một Ủy ban Nhà nước, nhược điểm lớn nhất của một doanh nghiệp theo như ông Đặng Quyết Tiến phân tích chính là vị thế của doanh nghiệp đó trong vai trò quản lý các tổng công ty, tập đoàn khổng lồ của Nhà nước.

“Nhược điểm lớn nhất của doanh nghiệp là vị thế của nó. Từ trước đến nay, ta chưa quen với việc quản lý vốn tại các doanh nghiệp lớn như Tập đoàn điện, than là do doanh nghiệp quản lý. Tư duy cũ là điện ,than lớn nhà vậy phải do Nhà nước quản lý, một doanh nghiệp chưa đủ vị thế” – ông Tiến nói.

Từ đó, theo vị Phó Cục Trưởng thì các doanh nghiệp lớn như các Tập đoàn điện, than nói trên cần có một tư duy mới: “Anh đã nắm giữ vốn Nhà nước thì anh sẽ bình đẳng như các doanh nghiệp khác là bị quản lý, không kể là một Ủy ban Nhà nước hay doanh nghiệp”. Điều quan trọng nhất là mô hình doanh nghiệp chứng minh được hiệu quả của mình và các bên doanh nghiệp, người quản lý rất cần có sự hợp tác tốt với nhau.

Vượng Lê

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

Bà Phạm Chi Lan chỉ ra Việt Nam khó có công nghiệp ô tô nếu như không khắc phục được những hạn chế này

Việt Nam sẽ khó mà có được ngành công nghiệp ô tô, nếu những điểm hạn chế của ngành trong phân tích của bà Phạm Chi Lan không được cải thiện

Trong nhiều chục năm qua, ngành công nghiệp ô tô trong nước đã phải trầy trật tìm đường hướng phát triển nhưng vẫn chưa thể thành công. Nỗi buồn mang tên Vinaxuki cùng nỗi ôm hận ngàn tỷ của ông Bùi Ngọc Huyên chính là hình ảnh điển hình nhất cho những khó khăn mà ô tô Việt đang gặp phải.

Bên lề buổi công bố báo cáo kinh tế vĩ mô quý I/2017 vừa qua của VEPR, chúng tôi đã có dịp trò chuyện với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cũng như niềm trăn trở của bà về hơn chục năm phát triển của ngành công nghiệp ô tô trong nước.

“Tôi cho rằng Việt Nam sẽ khó mà có được ngành công nghiệp ô tô, nếu như không có những cải thiện” – vị chuyên gia kinh tế mở đầu rất thẳng thắn.

Điểm nổi bật trong quan điểm của bà Lan nằm ở chỗ dường như phương cách phát triển của ô tô Việt Nam vẫn chưa được đúng, khiến chúng ta vẫn chưa thể có cái có thể thực sự được gọi là ‘ngành công nghiệp ô tô nội địa’.

“Mình làm chỉ do mình ham thích, mình muốn làm mà thôi, chứ hoàn toàn không hiểu quy luật của nó” – bà Lan nói.

Phân tích sâu thêm, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan phân tích rằng “quy luật của ngành ô tô là đòi hỏi quy mô lớn, chỉ có quy mô lớn mới có thể hiệu quả, còn quy mô quá nhỏ, quá nhiều người làm thì không thể hiệu quả được”.

Theo bà, chúng ta nên học hỏi mô hình kinh nghiệm của Hàn Quốc. Ở đó, Hàn Quốc ở những điểm khởi đầu phát triển ngành công nghiệp ô tô chỉ chọn đúng con số 3 doanh nghiệp để dồn sức phát triển. Con số 3 này là hoàn hảo để thị trường ô tô nội địa Hàn Quốc vừa không bị phân mảnh, khiến cho các quy mô các doanh nghiệp bé đi mà cũng vừa đủ tính cạnh tranh.

“Tại sao lại là 3 ? Họ nói 3 là đủ để cạnh tranh. 2 doanh nghiệp thì có thể móc ngoặc với nhau, 3 là tạo thành nhân tố cạnh tranh. Nhưng con số không thể nhiều hơn 3, vì nhiều hơn 3 thì mỗi doanh nghiệp sẽ không đủ dung lượng thị trường cho chính mình” – bà Lan nói.

Đồng thời, để tạo tính đa dạng thị trường, Hàn Quốc cũng khuyến khích 3 doanh nghiệp này chọn 3 dòng công nghệ khác nhau đến từ các nước: Đức, Mỹ và Nhật.

Đây đều là những dòng công nghệ tiên tiến nhất tập trung vào 3 doanh nghiệp lớn của Hàn Quốc. Từ đó, các doanh nghiệp này chung tay cùng lắm và làm phát triển ngành công nghiệp ô tô nội địa Hàn Quốc. So sánh với Việt Nam, bà Lan nói “mình cho một lúc mười mấy doanh nghiệp mà anh nào cũng chỉ lắp ráp mà thôi”.

Điểm yếu tiếp theo của Việt Nam khiến bà Lan cho rằng ngành công nghiệp ô tô sẽ khó mà tồn tại chính là việc thiếu hụt của các ngành công nghiệp phụ trợ. Đặc biệt, đối với một ngành sản xuất trình độ cao như sản xuất ô tô, các ngành phụ trợ lại càng trở nên cần thiết.

“Thứ hai là các ngành ô tô là ngành đòi hỏi rất nhiều ngành phụ trợ, tới mấy trăm cái phụ tùng khác nhau. Anh phải có một nền tảng cua ngành cơ khí, của một số ngành phụ trợ đã thì anh hãy nên làm ngành ô tô. Anh chưa có gì thì anh không nên làm, bởi vì anh sẽ thuần túy chỉ là lắp ráp thôi”, vị chuyên gia kinh tế này phân tích.

Bên cạnh cách làm sai, thiếu hụt công nghiệp phụ trợ, điểm cuối cùng mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chỉ ra là người Việt vẫn chưa đủ tiền để mua ô tô, giúp ô tô trong nước phát triển.

Thu nhập bình quân đầu người của nước ta nằm vừa rồi đạt mức trên 2.200 USD. Theo vị chuyên gia kinh tế, mức này vẫn chưa đủ bởi lẽ “chỉ những nước nào thu nhập bình quân đầu người/năm là 3.000 USD trở lên thì mới nên nghĩ đến làm ô tô, còn dưới mức đó thì đừng nên nghĩ đến”

Còn nhớ, cách đây hơn chục năm, khi mà những xí nghiệp sản xuất ô tô liên doanh xuất hiện, chúng ta đã từng mơ về thời điểm các nhà sản xuất trong nước có thể ‘học’ được cách làm ô tô từ các gã khổng lồ trên thế giới như Toyota, Huyndai…để rồi làm ra những chiếc ô tô ‘made in Vietnam’.

Giấc mơ này đi cùng hàng loạt những ưu đãi mà Việt Nam dành cho các nhà sản xuất ô tô quốc tế này theo kiểu chỉ cần cam kết có nội địa hóa là sẽ có ưu đãi từ các nhà chức trách địa phương và trong nước.

“Tôi chắc chắn là lúc bấy giờ cả Toyota, Huyndai…có lời hứa nội địa hóa nhưng trong thâm tâm, họ biết chắc cam kết nội địa hóa là không thể được. Tuy nhiên, cứ hứa một cái như vậy là được ưu đãi nên họ cứ hứa” – bà Lan trở lại câu chuyện cũ của ngành ô tô một cách đầy tiếc nuối.

Giờ đây, khi mà Thủ tướng đã thẳng thắn đề đạt mong muốn “một đất nước 90 triệu dân thì không thể không có ngành công nghiệp ô tô”, câu chuyện trên được nhắc lại như một bài học xương máu với ô tô Việt Nam. Từ đó, 3 điểm yếu trên trong lời phân tích trên của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan có lẽ sẽ là những điểm mà những người làm ô tô trong nước cần lưu tâm.

Vượng Lê

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

Thứ trưởng thường trực Bộ Tài chính: Năm nay đừng lấy thành tích cổ phần hóa được bao nhiêu doanh nghiệp ra mà thấy vui...

Ông Nguyễn Công Nghiệp, thứ trưởng thường trực Bộ Tài chính nói về Chủ trương giảm tỷ trọng vốn Nhà nước vẫn chưa được sát sao, dù số doanh nghiệp được cổ phần hóa vẫn đang tăng lên.

Nhiều chuyên gia nhận định rằng thoái vốn, cổ phần hóa vốn Nhà nước đang cần có những bước cải thiện trong quy trình để đạt được hiệu quả tối đa của mình. Trong một buổi hội thảo về quản lý vốn nhà nước tại Hà Nội mới đây, nhận định này dường như đã trở nên xác đáng hơn từ nhận xét của đại diện cơ quan quản lý nhà nước.

Trong cuộc trao đổi bên lề với chúng tôi, Thứ trưởng thường trực Bộ Tài chính là ông Nguyễn Công Nghiệp đã chỉ ra một vấn đề lớn đang đặt ra với quản lý vốn Nhà nước hiện nay là việc chủ trương giảm vốn Nhà nước trong nền kinh tế vẫn chưa được thực hiện sát sao.

Ngược lại, trên thực tế thì các báo cáo lại chỉ ra vốn đầu tư Nhà nước đang ngày càng tăng lên. Giá trị tài sản, giá trị vốn chủ sở hữu của Nhà nước trong nền kinh tế không hề của dấu hiệu giảm xuống, ngược lại so với xu hướng thoái vốn và cổ phần hóa hiện tại của Chính phủ.

Lý do của thực trạng này được ông Nguyễn Công Nghiệp chỉ ra là vì vốn Nhà nước đã thoái ra nhưng lại không được mang đi đầu tư vào cơ sở hạ tầng và mang đến đầu tư vào thành phần doanh nghiệp Nhà nước và có vốn đầu tư Nhà nước khác.

Tựu chung lại, vốn Nhà nước trong nền kinh tế có tỷ trọng không suy giảm đáng kể. Hệ quả đối với các thành phần kinh tế khác, theo ông Nghiệp là “không còn để giành khoảng trống cho các thị trường và các khu vực khác tồn tại”.

Ông Nghiệp dẫn chứng một số liệu giật mình rằng dù quá trình thoái vốn, cổ phần hóa đã thực hiện từ lâu nhưng “trong các yếu tố đầu vào thì khu vực doanh nghiệp Nhà nước và có vốn đầu tư Nhà nước có tỷ trọng chiếm đến 60%. Tỷ trọng khối doanh nghiệp này tính theo GDP cũng lên đến 30%, trong khi con số mục tiêu chỉ là 15%”.

“Thoái vốn Nhà nước nên để đầu tư ngược trở lại doanh nghiệp hay đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Theo tôi, thì là cơ sở hạ tầng” – ông Nghiệp kết luận.

Từ bao lâu nay, công tác thoái vốn, cổ phần hóa đã được thực hiện nhưng những nguyên tắc nhất quán, những mục tiêu thoái vốn triệt để vẫn chưa được tuân theo khiến cho thoái vốn, cổ phần hóa chỉ thiên về lượng mà chưa tạo ra giá trị ở phần chất.

Đại diện Bộ Tài chính cho rằng Cần có mục tiêu rõ ràng, quan điểm triển khai rõ ràng. Khi chủ trương giảm tỷ trọng vốn Nhà nước đã được đặt ra thì phải thực hiện bằng được chủ trương đó.

“Muốn thế thì năm nay đừng lấy thành tích cổ phần hóa được bao nhiêu doanh nghiệp mà thấy vui. Phải là năm nay, vốn nhà nước đã thoái được bao nhiêu, Chúng ta không thể lấy kết quả số doanh nghiệp được cổ phần hóa, mà phải lấy số vốn thoái ra và được đầu tư vào hạ tầng là thước đo”, ông nhấn mạnh.

Việc cổ phần hóa, rút vốn, tựu chung lại cần đạt được mục tiêu cuối cùng là giảm con số tỷ trọng vốn Nhà nước trong tổng thể nền kinh tế. Có như vậy, những khu vực doanh nghiệp khác như tư nhân mới có thể có khoảng trống để tồn tại và phát triển, theo như lời Thứ trưởng Nguyễn Công Nghiệp nhận định.

Vượng Lê

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

Tăng trưởng quý I thấp, Chính phủ lên kịch bản tăng trưởng trung bình 7,1% trong 3 quý còn lại

Một năm đã đạt tăng trưởng không như mong đợi, đến quý I này cũng có tăng trưởng thấp nhất trong 3 năm, vì thế Chính phủ đặt quyết tâm mục tiêu 6,7% sẽ phải thực hiện cho bằng được.

Quý I/2017, các số liệu đã được công bố và nền kinh tế được ghi nhận chỉ đạt tăng trưởng 5,1% - mức thấp nhất trong 3 năm trở lại đây. Con số này đã khiến nhiều người phải nghi ngại về mức tăng trưởng mục tiêu trong cả năm đã được đặt ra trước đó.

Xung quanh vấn đề này, tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 4/2017, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng đã có những chia sẻ cụ thể, truyền đạt lại tinh thần, cũng như giải pháp Chính phủ đưa ra để làm sao cuối năm, chúng ta được thấy con số tăng trưởng 6,7%.

Mục tiêu 6,7% được theo đến cùng vì đây là chìa khóa để cả nhiệm kỳ 2016 – 2020 kinh tế đạt tăng trưởng mục tiêu

Năm ngoái, nền kinh tế có mức tăng trưởng kém so với mục tiêu. Tuy nhiên năm nay, Chính phủ đặt quyết tâm rằng con số 6,7% phải đạt được bằng được.

“Quyết tâm nhất quán của Thủ tướng Chính phủ là thực hiện bằng được mục tiêu tăng trưởng và lạm phát” – Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói.

Theo vị Bộ trưởng, việc đạt mục tiêu đóng vai trò quan trọng ở điểm nó sẽ giúp nền kinh tế đạt được sự cấn đối vĩ mô, kể cả trong các vấn đề về đảm bảo ngân sách Nhà nước, đảm bảo nợ công, đầu tư, xuất nhập khẩu, đảm bảo về mặt việc làm, đời sống người dân.

Đặc biệt, nhìn trong cả nhiệm kỳ 2016 – 2020, do chúng ta đã có một năm đầu tiên tăng trưởng không mong đợi nên với năm 2017 này, tăng trưởng mục tiêu mức 6,7% sẽ là chìa khóa giúp các năm tiếp theo trong cả giai đoạn đạt mức tăng trưởng bền vững, giúp cả nhiệm kỳ 2016 – 2020 đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5% - 7% như đã ghi trong Nghị quyết Quốc hội.

Kịch bản tăng trưởng rất cao cho 3 quý còn lại của năm 2017 được vẽ nên

Theo Bộ trưởng, quý I/2017, chúng ta đã chỉ đạt tăng trưởng 5,1%. Như vậy, để đạt mục tiêu tăng trưởng 2017 là 6,7% thì kịch bản được đã Chính phủ vẽ nên trong phiên họp Chính phủ vừa qua về tăng trưởng của 3 quý tới là: quý II phấn đấu tăng 6,26%; quý III tăng trưởng 7,29% và quý IV tăng trưởng 7,49%. Như vậy, 3 quý còn lại nền kinh tế phải đạt tăng trưởng bình quân 7,1% thì mới mong mục tiêu 6,7% thành hiện thực.

Đáng chú ý, kịch bản này cao hơn nhiều so với những dự đoán tăng trưởng của các đơn vị nghiên cứu độc lập khác. Ví dụ như, Viên Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VEPR hết quý I vừa qua đã dự đoán quý II kinh tế Việt Nam chỉ tăng trưởng 5,7%, quý III tăng trưởng 6,5% và quý IV tăng trưởng 6,6%. Cả năm 2017, VEPR dự đoán Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 6,1%.

Vượng Lê

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

Để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7%, Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp được Chính phủ giao nhiều trọng trách

Kịch bản tăng trưởng rất cao được đặt ra: Quý II tăng 6,26%; quý III tăng 7,29% và quý IV tăng 7,49%. Chính phủ có giải pháp gì để kịch bản này thành hiện thực?

Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2017 đã diễn ra ngày 4/5 vừa qua. Bỏ qua một quý đầu năm có mức tăng trưởng không như mong đợi, Chính phủ đã hạ quyết tâm phải khiến con số mục tiêu 6,7% trở thành hiện thực bằng mọi cách.

Từ đó, Chính phủ đã vẽ nên một kịch bản tăng trưởng cho 3 quý cuối năm như sau: Quý II tăng trưởngphấn đấu đạt 6,26%; quý III tăng trưởng 7,29% và quý IV tăng trưởng 7,49%. Kịch bản tăng trưởng rất cao này đã thu hút sự tò mò của báo giới về những giải pháp nổi trội mà Chính phủ sẽ thực hiện để biến kịch bản này thành sự thật.

Theo đó, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ đã truyển đạt lại tinh thần của Chính phủ về 8 giải pháp trọng tâm đã được bàn thảo trong phiên họp Chính phủ. 8 giải pháp này trải dài ở nhiều vấn đề bao gồm cả kinh tế, xã hội, sắp xếp các đơn vị hành chính, xã hội hóa các đơn vị công lập, quản lý chi tiết kiệm trong thực hiện các nhiệm vụ của Chính phủ giao phó....

Tuy nhiên, trong các giải pháp này, vị Bộ trưởng nhấn mạnh vào 2 cái tên là 'Bộ Công Thương' và 'Bộ Nông Nghiệp' như những phần chính yếu nhất, đóng vai trò chìa khóa của tăng trưởng cao trong 3 quý tới.

Bộ Công Thương được giao nhiều trọng trách để kịch bản tăng trưởng rất cao thành sự thật

Bộ trưởng Mai Tiến Dũng đã tiết lộ một loạt các nhiệm vụ mà Chính phủ sẽ giao phó cho Bộ Công Thương trong thời gian tới.

Trước hết, Bộ Công Thương sẽ được giao nhiệm vụ tăng cường khai thác thêm dầu thô (1 triệu tấn dầu). Còn nhớ, quý I sản lượng khai thác dầu thô giảm tới 14% và đây chính là một phần nguyên nhân làm tăng trưởng quý I thấp bởi lẽ theo lời ông Mai Tiến Dũng thì "đây là lĩnh vực rất quan trọng, đảm bảo cho tăng trưởng của cả nền kinh tế".

Cùng với đó, Bộ Công Thương cũng được Chính phủ giao cho phối hợp với các Bộ ngành khác để quyết liệt thực hiện một số nhiệm vụ.

Cụ thể, đó có thể kể đến là phối hợp với các bên khác xử lý dứt điểm 12 dự án thua lỗ kém hiệu quả, đẩy thật nhanh tiến độ các công trình trọng điểm thuộc quản lý của Bộ Công Thương để các công trình này đi vào hoạt động sớm, từ đó thúc đẩy tăng trưởng của cả nền kinh tế. Đồng thời, đó cũng là các giải pháp về cung ứng điện, tập trung giúp các thương hiệu phát triển được thị trường trong nước mà Bộ Công Thương cần lưu tâm.

Tiết lộ thêm về 12 dự án kém hiệu quả, Bộ trưởng Dũng tiết lộ quan điểm xử lý 12 dự án này sẽ theo quan điểm xử lý kinh tế thị trường. Hiện, Thủ tướng đã thành lập một tổ công tác do Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ là tổ trưởng, cùng các cơ quan Bộ, ngành để giải quyết vụ việc các dự án này.

Nhắc lại về nông nghiệp

Trong phần trả lời về các giải pháp của mình, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cũng nhắc đến vấn đề nông nghiệp.

"Riêng đối với ngành nông nghiệp thì tại phiên họp Chính phủ vừa qua, Thủ tướng đã rất quan tâm tới vấn đề tạo thị trường cho nông sản, phát triển sản xuất ngành nông nghiệp theo chuỗi giá trị, áp dụng công nghệ cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp".

Theo ông Dũng, trong thời gian tới, một loạt các chính sách nông nghiệp sẽ được đẩy mạnh hơn để giúp ngành này sớm trở lại với đà tăng trưởng. Theo đó, có thể kể đến là những chính sách về gói tín dụng 100.000 tỷ, các thủ tục đầu tư vào nông nghiệp, chính sách tích tụ ruộng đất hay các chỉ đạo khác nhằm thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao

Đồng thời, Chính phủ cũng đã giao cho Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn phối hợp với các bộ khác đàm phán với các nước, các doanh nghiệp trong khu vực và quốc tế để làm sao tìm ra nhiều đơn hàng xuất khẩu có giá trị cho bà con nông dân.

Vượng Lê

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

Làm sao để xóa bỏ nghịch lý giá lợn hơi giảm sâu, nhưng người tiêu dùng vẫn phải gánh giá cao?

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng khẳng định sẽ không để xảy ra tình trạng giá lợn hơi giảm sâu mà người tiêu dùng vẫn phải “gánh” giá cao nữa.

Phát biểu tại phiên họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 4/2017 diễn ra chiều ngày 4/5, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết đang xảy ra một nghịch lý là người sản xuất, chăn nuôi lợn chịu thiệt hại vì giá thịt lợn hơi giảm sâu còn trên thị trường, người tiêu dùng có nơi vẫn phải mua với giá 100 nghìn đồng/kg.

Cụ thể, tại siêu thị, chợ, giá bán thường là 80.000-90.000 đồng/kg, thậm chí có nơi bán 100.000 đồng/kg. Trong khi đó, giá heo hơi xuống rất thấp, có lúc chỉ 50% mức giá hòa vốn (giá hòa vốn là 34.000-35.000 đồng/kg hơi).

"Đó là nghịch lý. Tinh thần của Thủ trướng là không để xảy ra tình trạng tương tự, yêu cầu các bộ ngành làm rõ vấn đề này", ông bày tỏ.

Trước thực tế nói trên, ông Dũng cho biết, tại cuộc họp vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu các bộ, ngành liên quan phải tìm hiểu nguyên nhân và tháo gỡ khó khăn cho ngành chăn nuôi, cụ thể là những người chăn nuôi lợn. Theo đó, cần phải đặt vấn đề đẩy mạnh tiêu thụ và kiểm soát chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ cho người nông dân.

Chính phủ cũng đã thảo luận về việc giải quyết khâu yếu là giá cả nông sản nói chung. Lâu dài cần có những giải pháp để hạ giá thành sản phẩm, tăng cường chế biến sâu và điều chỉnh quy mô sản xuất để phù hợp với dung lượng thị trường.

3 giải pháp của Bộ Nông Nghiệp

Trước đó, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cũng đã có những chỉ đạo quyết liệt để tháo gỡ khó khăn của ngành chăn nuôi, kể cả khuyến khích lực lượng vũ trang mua thịt heo của dân.

Hiện tại, còn khoảng 300.000-400.000 tấn heo đủ tiêu chuẩn xuất chuồng.

"Chúng tôi cố gắng giải quyết để đưa cân bằng cung cầu trong 2-3 tháng nữa", Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Công Tuấn cho biết.

Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng đưa ra 3 giải pháp lâu dài là giải quyết tốt quan hệ cung cầu, không để dư; rà soát đảm bảo tổng đàn và quy mô đàn có cơ cấu hợp lý, trước mắt kiểm soát heo nái, nâng an toàn thực phẩm; tổ chức liên kết chuỗi.

Bộ cũng sẽ đề xuất Chính phủ thay đổi một số cơ chế, chính sách, nhưng quan điểm chung không hỗ trợ trực tiếp, mà qua liên kết chuỗi và theo tín hiệu thị trường.

Những thông tin về heo nhập khẩu: không ảnh hưởng hàng trong nước

Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải đã cung cấp thêm thông tin về vấn đề liệu có việc nhập khẩu thịt, các mặt hàng liên quan đến thịt heo làm ảnh hưởng đến thị trường trong nước.

Thứ trưởng Hải cho biết năm 2016, Việt Nam nhập 39,4 nghìn tấn thịt heo và các sản phẩm liên quan đến thịt heo nhập từ Australia, EU, Mỹ, Canada. Giá trị nhập khẩu đạt 44 triệu USD, chỉ chiếm 0,1% sản lượng tiêu thụ trong nước.

Ông Đỗ Thắng Hải khẳng định số lượng nhập khẩu không ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Giá thịt nhập khẩu cũng đắt hơn nhiều so với thị trường trong nước. Giá bán ở Vinmart là 120.000-130.000 đồng/kg.

Năm 2016, Việt Nam chỉ nhập 20 triệu USD với thịt heo tạm nhập tái xuất. Ban chỉ đạo 389 rất quan tâm và giám sát ngăn việc thông qua tạm nhập tái xuất để đưa vào thị trường Việt Nam tiêu thụ.

Bộ Công Thương cũng sẵn sàng tạm dừng việc tạm nhập tái xuất với mặt hàng liên quan đến thịt heo trước mắt, nếu Chính phủ có chủ trương. Thứ trưởng Bộ Công Thương cũng giải thích lý do về việc thịt heo Việt Nam không xuất đi được các nước trên thế giới, do chất lượng.

"Tại châu Á, chỉ Hong Kong và Malaysia đã ký hiệp định thú y với Việt Nam. Chỉ xuất heo sữa 20-30 kg/con, số lượng ít. Xuất khẩu chủ yếu là tiểu ngạch. Năm 2016 chúng ta đã xuất 200.000 tấn thịt heo. Đến năm 2017, họ kiểm soát chặt do chúng ta chưa công bố hết một số dịch như tai xanh, nên số lượng giảm nhiều", ông Hải cho biết.

Về các chính sách tín dụng hỗ trợ người chăn nuôi, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho hay dư nợ hiện tại cho toàn ngành chăn nuôi là gần 30.000 tỷ đồng, trong đó 57% là dài hạn. Số lượng nông dân và doanh nghiệp là hơn 506.000 khách hàng. Trong đó chủ yếu là cá nhân, gia đình chiếm 90% dư nợ. 10% còn lại là doanh nghiệp, hợp tác xã, mô hình liên kết.

Ông cũng nhận định dư nợ như vậy là rất lớn trong tỷ trọng các ngành. Giá bán giảm thấp, nhiều người nuôi heo không tiêu thụ được, chậm trả nợ khiến cho nợ xuất bắt đầu xuất hiện với con số khoảng 311 tỷ đồng, chiếm 1,12% tổng dư nợ.

Vũ Hán

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

11 nước tiếp tục đàm phán TPP mà không có sự tham gia của Mỹ

Theo tờ Nikkei Asian Review đưa tin, phiên họp đầy đủ đầu tiên đã diễn ra giữa 11 nước thành viên TPP, trong đó không có Mỹ

Trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Donald Trump quyết định rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhiều người nghĩ rằng đây là kết thúc cho thỏa thuận thương mại đã đàm phán từ lâu giữa các quốc gia thành viên.

Nhưng không có Mỹ, Canada đã lặng lẽ tổ chức các cuộc thảo luận trong tuần này để tìm "những bước đi tiếp theo có thể" cho hiệp định TPP.

Theo Nikkei Asian Review, chiều ngày thứ Ba, phiên họp đầy đủ đầu tiên đã diễn ra giữa 11 nước thành viên. Nhật Bản, nền kinh tế lớn nhất tham gia đàm phán hiện nay, đang làm việc để đảm bảo rằng các quy tắc đề xuất về thương mại và thuế quan vẫn giữ nguyên trong một thỏa thuận sau khi Mỹ rút.

Nhật Bản hiện cũng chiếm gần một nửa tổng GDP của tất cả các nước thành viên tham gia TPP sẽ đóng vai trò dẫn dắt. Tokyo đặt mục tiêu là sẽ đạt thỏa thuận trong năm nay, với thời hạn là tháng 11 tới đây tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC).

Canada là nước chủ trì tổ chức các buổi đàm phán, theo đại diện của cơ quan ngoại giao Canada. Các cuộc đàm phán giữa các nước TPP 11 đang diễn ra tại một địa điểm bí mật ở Toronto.

Tuy nhiên, tương lai về một thỏa thuận thương mại không có Mỹ vẫn chưa xác định. Các quan chức thương mại 11 nước cũng được dự báo thảo luận về khả năng của các hiệp định thương mại song phương giữa các nước.

Canada và Mexico vẫn bình thản trước khả năng Mỹ đàm phán lại Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ, và dự kiến cũng sẽ tiếp nhận khả năng về TPP 11. Chile, mặc dù chưa có thỏa thuận thương mại tự do với nhiều nước châu Á, cũng có thể tiếp tục tham gia.

Theo Nikkei, Việt Nam chuẩn bị ưu tiên đàm phán FTA với Mỹ để thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may tới nước này. Vì vậy, một quan chức Nhật Bản cho biết, Việt Nam có khả năng tham gia các cuộc đàm phán với một lập trường vững chắc - khả năng khiến Australia và New Zealand lo ngại khi thực hiện đàm phán với Việt Nam.

Các cuộc họp tại Toronto được cho là cũng sẽ đặt nền móng cho cuộc họp bộ trưởng các nước APEC cuối tháng này tại Việt Nam.

Cùng với Canada, 11 quốc gia khác vẫn tham gia thảo luận về TPP bao gồm: Australia, Brunei, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam.

Vũ Minh

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

Những câu chuyện bên lề chiến dịch giải cứu thịt lợn

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không cung cấp số liệu chi tiết về lượng thịt lợn cần giải cứu nhưng các thông tin bên lề cho thấy số lượng thịt lợn đang thừa với quy mô thị trường trong nước nhưng lại yếu về chất lượng khi muốn xuất khẩu.

Nghề hoạn lợn cũng theo... phong trào

Sôi động. Tưng bừng. Cuộc giải cứu thịt lợn đã diễn ra như thế được hơn một tuần qua. Bằng những công văn hỏa tốc, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã kêu gọi cả nước tiêu thụ thịt lợn để giúp đỡ nông dân. Cuộc khủng hoảng thịt lợn đã tạo ra một cột mốc mới của khủng hoảng nông sản.

Trước đó một vài năm, phong trào tái đàn đã được nông dân thi nhau thực hiện sau một thời gian dài giá lợn hơi tuột dốc. Làm kinh tế theo kiểu phong trào có lẽ là một đặc tính không chỉ ở nông dân. Thực tế, chương trình đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn được nhà nước cấp kinh phí cũng đang có những biểu hiện tương tự.

Hồi tháng 3/2017, ông Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội (LĐTBXH) từng cho biết “có những xã đào tạo tập trung 600 người vào 1 nghề… hoạn lợn”. Sau khi phát hiện được sự việc này, ông Dung đã có ý kiến với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (đơn vị phối hợp thực hiện chương trình) đánh giá rằng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên đến 65-70% nhưng chưa thực chất, “gặp gì đào tạo nấy, đánh trống ghi tên”.

Mặc dù vậy, theo Báo cáo kết quả thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn giai đoạn 2011 – 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT), có tới 81% số người sau học nghề có thu nhập khá. Tuy nhiên, bản báo cáo không chỉ rõ việc nông phẩm được tiêu thụ ra sao để mang lại thu nhập cao hơn cho người nông dân.

Con số 81% người có thu nhập khá sau học nghề liệu có nói lên tính bền vững của chương trình? Liệu rằng trong số những cân thịt lợn được giải cứu kia có thành quả lao động của những người nông dân đã tốt nghiệp khóa học “hoạn lợn” như Bộ trưởng LĐTBXH từng thẳng thắn chia sẻ?

Thị trường xuất khẩu: Vì sao tắc?

Liên quan đến chiến dịch giải cứu thịt lợn, có một thông tin rất đáng chú ý. Tại Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 4/2017, ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho biết thịt lợn Việt Nam không thể xuất khẩu sang thị trường nước ngoài là do chất lượng mặt hàng này.

Trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, chỉ Hong Kong và Malaysia có ký kết hiệp định về thú ý với Việt Nam, công nhận chất lượng kiểm dịch. Về chính ngạch, sản phẩm của Việt Nam mới chỉ có thể xuất khẩu vào hai thị trường này. Nhưng, họ chỉ nhập khẩu lợn sữa 20-30kg/con, với số lượng rất ít. Lượng xuất khẩu thịt lợn năm 2016 là 200.000 tấn. Đến năm 2017, hai thị trường này kiểm soát chặt hơn do Việt Nam chưa công bố hết một số dịch như tai xanh, nên số lượng giảm nhiều.

Về tiểu ngạch, sản phẩm thịt lợn Việt Nam hiện đang dựa vào thị trường Trung Quốc. Ông Hà Công Tuấn, Thứ trưởng Bộ NNPTNT cho biết bốn tháng đầu năm 2017, nước này đã giảm lượng thịt lợn nhập khẩu từ nước ta xuống dưới 10% so với năm 2016 ngoái. Điều này ảnh hưởng đến tiêu thụ lợn và Bộ NNPTNT đang tiếp tục đàm phán.

Nhưng số lượng lợn tồn đọng do không thể xuất khẩu là bao nhiêu? Thứ trưởng Bộ NNPTNT không cung cấp số liệu chi tiết trong cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 4/2017. Thay vào đó, cam kết cân bằng cung – cầu thị trường thịt lợn trong 2-3 tháng được đại diện Bộ NNPTNT đưa ra cùng với 3 nhóm giải pháp trong trung và dài hạn.

Trước đó, Tổng cục Thống kê đã công bố báo cáo kinh tế quý I, trong đó có thống kê về số lợn trên cả nước. Theo đó, cả nước chỉ có 29 triệu con lợn. Con số này vẫn nằm trong giới hạn 35 triệu con thuộc Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Chưa rõ số lượng lợn hiện nay đang thừa hay thiếu. Chỉ biết rằng chúng đang thừa với sức ăn và cũng đang thiếu về chất lượng.

Theo Vương Diệu Quân

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Thủ tướng chỉ thị tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng CN 4.0, hàng loạt Bộ được giao trọng trách quan trọng

Một trong số những chỉ thị chính thức đầu tiên của Chính phủ trong quyết tâm bắt kịp vận hội do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên thế giới đang vẽ nên

Chính phủ vừa có một động thái mới nhất nhằm ứng xử với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang trước mắt Việt Nam. Cụ thể, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16 về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, qua đó giúp Việt Nam nắm bắt được cơ hội và vượt qua thách thức của cuộc cách mạng này.

Theo Chỉ thị này được ban hành vào ngày 4-5-2017 này, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự đột phá của Internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo, đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới. Làn sóng công nghệ mới này đang diễn ra với tốc độ khác nhau tại các quốc gia trên thế giới.

Để chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực tận dụng tối đa các lợi thế, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của cuộc cách mạng này đối với Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng, ứng dụng và nhân lực công nghệ thông tin, phát triển hạ tầng kết nối số và bảo đảm an toàn, an ninh mạng...

Đồng thời, các địa phương cũng cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ nhằm cải thiện môi trường cạnh tranh, kinh doanh để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hấp thụ và phát triển được các công nghệ sản xuất mới. Các bộ, ngành cần tiếp tục chủ động rà soát, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn phù hợp…

Tại Chỉ thị 16 này, một loạt các Bộ cũng được Thủ tướng giao trọng trách, với mục tiêu làm sao để Việt Nam không bị tụt hậu so với thế giới ở cuộc cách mạng này.

Cụ thể. Bộ Thông tin và Truyền thông được Thủ tướng giao phó trọng trách tập trung thúc đẩy phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, đưa ra các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển, kinh doanh công nghệ mới. Trong đó, các doanh nghiệp viễn thông chú trọng hoàn thiện mạng 4G, có chính sách tiếp cận, nghiên cứu và phát triển mạng 5G, đáp ứng yêu cầu Internet kết nối vạn vật trong thời gian sớm nhất.

Đồng thời, Thủ tướng giao Bộ Khoa học và Công nghệ, cùng với việc tập trung thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung xây dựng, thúc đẩy các hoạt động ứng dụng, nghiên cứu phát triển, chuyển giao các công nghệ chủ chốt của cuộc cách mạng.

Bộ này cũng được giao việc chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan kết nối các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ để tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Bộ Giáo dục và Đào tạo được giao trọng trách phải thúc đẩy triển khai giáo dục về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học trong chương trình giáo dục phổ thông, tăng cường giáo dục những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với những yêu cầu của cuộc cách mạng.

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội phải đổi mới đào tạo, dạy nghề trong hệ thống các trường đào tạo nghề theo hướng phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi nghề nghiệp có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu, làm chủ và khai thác, vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ của cách mạng.

Bộ Tài chính tập trung xây dựng các cơ chế, chính sách về thuế, tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển và đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các công nghệ tiên tiến khác; tiếp tục rà soát, khẩn trương thực hiện triệt để Nghị quyết 41 ngày 26-5-2016 của Chính phủ về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin tại Việt Nam.

Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam được giao nhiệm vụ nắm bắt các xu thế phát triển khoa học và công nghệ; chủ trì, tổ chức triển khai các hướng nghiên cứu khoa học và công nghệ mũi nhọn; tiếp cận xu hướng công nghệ tiên tiến, hiện đại của cuộc cách mạng.

Cuối cùng, hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh được yêu cầu phải lồng ghép nội dung triển khai cách mạng công nghiệp 4.0 vào trong quá trình tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Ủy ban Quốc gia.

Vũ Hán

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

300 năm lịch sử các NHTW: Bản vị vàng ra đời như thế nào?

Nhắc đến lịch sử và vai trò của các NHTW không thể không nhắc đến chế độ bản vị vàng.

Nước Anh bắt đầu áp dụng chế độ bản vị vàng vào khoảng thế kỷ 18 khi quy định các tờ giấy bạc do NHTW Anh (BoE) phát hành có thể được quy đổi ra vàng nếu người dân muốn thế.

Như vậy BoE đã cam kết sẽ duy trì giá trị của các tờ tiền giấy. Rộng hơn, BoE đảm bảo sự ổn định của đồng bảng. Một mặt, giá trị thực của các tài sản của chủ nợ (như trái phiếu và các khoản nợ) được giữ nguyên, mặt khác người đi vay cũng sẽ không phải chứng kiến các khoản nợ phình to.

Chế độ bản vị vàng bị tạm ngừng trong các cuộc chiến tranh do các khoản nợ của chính phủ và lạm phát tăng mạnh. Sau đó Nghị viện Anh khôi phục nó vào 1819, mặc dù chỉ bằng cách miễn cưỡng ép buộc nền kinh tế rơi vào thời kỳ giảm phát và suy thoái. Suốt phần còn lại của thế kỷ 19, chế độ bản vị vàng lại được duy trì.

Điều này giúp giá cả ổn định, nhưng hệ quả là BoE phải tăng lãi suất để thu hút dòng vốn từ nước ngoài bất cứ khi nào lượng vàng dự trữ bắt đầu suy giảm. Do đó, gánh nặng điều chỉnh nền kinh tế lại đổ lên vai người lao động thông qua mức lương thấp và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Không ngạc nhiên khi thứ tự ưu tiên của Chính phủ Anh là như vậy khi mà quyền bỏ phiếu chỉ giới hạn trong những ông chủ sở hữu nhiều đất đai.

Thế kỷ 19 cũng chứng kiến sự nổi lên của 1 trách nhiệm khác mà các NHTW phải chịu: quản lý khủng hoảng. Các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra thường xuyên mà trong đó người cho vay mất niềm tin vào các ngân hàng tư nhân. Kéo theo đó là hoạt động thương mại bị ảnh hưởng vì các thương nhân mất khả năng thanh toán. Trong cơn hoảng loạn năm 1825, nền kinh tế Anh được miêu tả là “chỉ còn 24 giờ nữa sẽ quay về thời hàng đổi hàng”. Sau cuộc khủng hoảng này, BoE được coi là “người cho vay cuối cùng”. Walter Bagehot, biên tập viên của tờ The Economist, đã định nghĩa nhiệm vụ này trong cuốn sách “Lombard Street” (xuất bản năm 1873) như sau: NHTW nên cho các ngân hàng gặp khó khăn vay tiền, đổi lại những ngân hàng này phải cung cấp được tài sản đảm bảo và phải trả lãi cao.

Tuy nhiên ý tưởng này không được chấp nhận rộng rãi. Một cựu Thống đốc của BoE từng gọi đây là “khái niệm ranh ma nhất được đưa vào thế giới tiền tệ hay ngân hàng”. Nhiệm vụ này cũng có khả năng xung đột với các vai trò khác của các NHTW. Mở rộng cho vay trong khủng hoảng cũng đồng nghĩa với mở rộng cung tiền, trong khi NHTW buộc phải giới hạn cung tiền để bảo vệ sự ổn định của đồng nội tệ.

Khi các quốc gia khác theo chân Anh thực hiện công nghiệp hóa trong thế kỷ 19, họ cũng sao chép mô hình NHTW và chế độ bản vị vàng của Anh. Đó cũng là điều mà nước Đức đã làm sau khi thống nhất năm 1871.

Ở bên kia bờ Đại Tây Dương, Alexander Hamilton, Bộ trưởng Tài chính Mỹ đầu tiên, rất ngưỡng mộ hệ thống tài chính của nước Anh và muốn áp dụng trên quê nhà. Tuy nhiên NHTW lại chính là một trong những chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử 50 năm đầu tiên của nước Mỹ. NHTW mà Hamilton xây dựng theo mô hình BoE tồn tại được 20 năm, cho tới khi giấy phép hoạt động hết hạn năm 1811. Ngân hàng thứ 2 ra đời vào năm 1816, nhưng cũng vấp phải nhiều sự phản đối. Andrew Jackson, một vị Tổng thống đi theo chủ nghĩa dân túy, phản đối tái tục giấy phép cho nó vào năm 1836.

Đến năm 1907, cuối cùng thì Mỹ cũng chấp nhận mở ra 1 NHTW sau khi trải qua khủng hoảng tài chính năm 1907. John Pierpont Morgan – nhân vật lỗi lạc trong lịch sử ngành tài chính ngân hàng thế giới – đã giải quyết cuộc khủng hoảng. Và người Mỹ cũng nhận ra rằng sẽ là hợp lý nếu tạo ra “người cho vay cuối cùng” không phụ thuộc vào 1 người cụ thể nào cả. 1 NHTW được Quốc hội thông qua sẽ đảm bảo xóa đi nỗi lo ngại xưa nay về chuyện “quyền lực nảy sinh từ tiền bạc”. Fed có cấu trúc đặc biệt, khiến nó khó lòng bị thao túng: gồm các ngân hàng khu vực thuộc sở hữu của tư nhân và 1 ngân hàng trung ương có các lãnh đạo được bổ nhiệm bằng hệ thống chính trị.

Năm 1913, Fed chính thức ra đời. Nhưng trớ trêu thay đó cũng là thời điểm cấu trúc thị trường tài chính toàn cầu bị chao đảo bởi chiến tranh thế giới thứ nhất. Trước năm 1914, các NHTW hợp tác với nhau để giữ cho tỷ giá ổn định. Nhưng chiến tranh khiến NHTW phải đặt lợi ích của đất nước lên trước bất kỳ thỏa thuận quốc tế nào. Không quốc gia nào sẵn lòng nhìn cảnh những thỏi vàng trong ngân khố quốc gia bị chuyển đến két sắt của kẻ thù. BoE ngừng đổi tiền ra vàng. Ở hầu hết các nước, chiến tranh được tài trợ bằng tiền đi vay mượn, khiến các NHTW phải trở lại vai trò mà nó đã đảm nhiệm từ những ngày đầu: tài trợ cho các chính phủ. Theo sau đó là mở rộng cung tiền và tất nhiên là lạm phát tăng cao.

Chiến tranh thế giới thứ nhất chính là đòn đánh đầu tiên mà chế độ bản vị vàng phải hứng chịu, báo hiệu cho sự sụp đổ của 1 hệ thống mà người ta từng tôn thờ.

(Còn tiếp)

Theo Thu Hương

Trí thức trẻ/The Economist

Đọc tiếp »

Mỹ gia hạn áp thuế chống bán phá giá với tôm đông lạnh của Việt Nam thêm 5 năm

Cục quản lý cạnh tranh ( Bộ Công thương ) cho biết, Ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đã ban hành kết luận đối với cuộc rà soát hoàng hôn lần thứ hai đối với thuế chống bán phá giá tôm nhập khẩu từ một số nước trong đó có Việt Nam.

Theo đó, ITC kết luận rằng việc dỡ bỏ lệnh áp thuế chống bán phá giá tôm sẽ dẫn tới khả năng tiếp tục hoặc tái diễn thiệt hại gây ra đối với ngành sản xuất Hoa Kỳ.

Trước đó, ngày 01 tháng 3 năm 2016, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã khởi xướng cuộc rà soát hoàng hôn lần thứ 2 (thực hiện 5 năm/lần) để xác định liệu việc dỡ bỏ lệnh áp thuế chống bán phá giá với tôm nhập khẩu từ một số nước, trong đó có Việt Nam (thuế chống bán phá giá tôm đã được Hoa Kỳ áp từ năm 2005) có dẫn tới khả năng tiếp tục hoặc tái diễn hành vi bán phá giá hay không.

Ngày 30 tháng 01 năm 2017, DOC đã ban hành kết luận cuối cùng khẳng định việc dỡ bỏ lệnh áp thuế sẽ dẫn tới việc tiếp tục hoặc tái diễn việc bán phá giá. Kết luận này dựa trên biên độ phá giá trên mức không đáng kể trong các đợt rà soát hành chính gần đây của Việt Nam (POR8, 9, 10, 11) cũng như lượng nhập khẩu có sự suy giảm so với giai đoạn 1 năm trước khi khởi xướng vụ việc điều tra.

Ngoài ra, DOC cũng căn cứ vào mức thuế suất toàn quốc, vẫn duy trì ở mức 25,67% kể từ cuộc điều tra ban đầu cho đến nay để cho rằng vẫn tồn tại doanh nghiệp bán phá giá và việc tiếp tục hoặc tái diễn bán phá giá có thể lên tới 25,67%.

Như vậy, do cả DOC và ITC đều đưa ra kết luận khẳng định, lệnh áp thuế chống bán phá giá tôm sẽ tiếp tục được duy trì thêm 5 năm nữa đối với Việt Nam.

Theo Tùng Anh

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Cuộc gặp Thủ tướng với doanh nghiệp: Hàng loạt kiến nghị trước “giờ G”

Dự kiến ngày 15/5 tới đây Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp năm 2017 sẽ diễn ra tại Hà Nội với chủ đề “Đồng hành cùng doanh nghiệp”. Trước khi cuộc gặp diễn ra đã có hàng loạt kiến nghị được gửi tới.

Theo thông tin từ Văn phòng Chính phủ , dự kiến ngày 15/5 tới đây Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp năm 2017 sẽ diễn ra tại Hà Nội với chủ đề “Đồng hành cùng doanh nghiệp”.

Đây là cuộc gặp được cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng, là nơi các doanh nghiệp, doanh nhân được trình bày các khó khăn, vướng mắc, cũng như các kiến nghị, đề xuất trực tiếp tới Thủ tướng Chính phủ.

Ngoài ra, Hội nghị cũng sẽ sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, đề xuất những giải pháp để thực hiện có hiệu quả hoặc sửa đổi, bổ sung Nghị quyết.

Trước khi cuộc gặp chính thức diễn ra, đã có khoảng gần 500 kiến nghị của hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp gửi về Văn phòng Chính phủ và Phòng Thương mại và công nghiệp VCCI. Các kiến nghị sẽ được chuyển tới các bộ ngành, cơ quan theo thẩm quyền giao nghiên cứu xử lý, sai đó VCCI sẽ tổng hợp lại báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Trao đổi với BizLIVE, ông Trần Văn Lĩnh – Chủ tịch Công ty Thuỷ sản Thuận Phước Lĩnh cho rằng cuộc găp của Thủ tướng đối với cộng đồng doanh nghiệp cho thấy sự nỗ lực rất nhiều trong việc thực hiện lời hứa xây dựng Chính phủ kiến tạo, phục vụ.

Tuy nhiên, theo ông Lĩnh, mặc dù có nhiều nỗ lực xong điều mong muốn nhất của doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh đó là giảm chi phí thì vẫn còn chưa thực hiện được.

“Giá sản xuất các mặt hàng của chúng ta vẫn còn cao và kém cạnh tranh quá. Giá nguyên liệu đắt, chi phí sản xuất lớn, chi phí vận chuyển cao. Một container từ Hải Phòng vào TP.HCM còn đắt hơn Đà Nẵng đi Nhật Bản. Lãi suất ngân hàng thì rất cao so với trong khu vực...”, ông Lĩnh nói.

Vị chủ doanh nghiệp này mong rằng sau cuộc gặp của Thủ tướng sẽ là sự xắn tay thực sự của tất cả các bộ ngành, chính quyền địa phương trong việc giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Cũng gửi kiến nghị tới cuộc gặp, đại diện Nhóm công tác Công nghiệp ô tô, xe máy (VBF) cho biết, mặc dù ô tô là ngành nghề có điều kiện chính thức từ tháng 7/2017 tới đây nhưng cho đến thời điểm này vẫn chưa có điều kiện cụ thể nào cho doanh nghiệp được đưa ra.

“Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận tải nên phối hợp với các bộ ngành và doanh nghiệp có liên quan để thiết lập điều kiện kinh doanh cần thiết, khả thi và minh bạch càng sớm càng tốt”, nhóm công tác của VBF kiến nghị.

Còn Nhóm công tác du lịch (VBF) kiến nghị Chính phủ tiếp tục xem xét miễn visa cho công dân các nước là thị trường trọng điểm của du lịch Việt Nam.

Cũng liên quan đến vấn đề du lịch, Hiệp hội Du lịch Việt Nam cũng đề nghị Chính phủ xem xét tiếp tục miễn visa cho công dân 5 nước Tây âu (Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Ý) và Belarusia trong 5 năm (từ 2017-2022).

Ngoài ra xem xét miễn visa cho một số quốc gia khác như Ấn Độ, Úc, Canada và một số các nước ở Đông Âu.

Hiệp hội Du lịch Việt Nam cho rằng việc triển khai visa điện tử là tạo điều kiện cho công dân 40 quốc gia khi xin vào Việt Nam. Nhưng điều đó là không đủ. Đối với tất cả quốc gia, việc miễn visa luôn là vũ khí cạnh tranh để thu hút khách.

Trong khi đó, Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Thanh Hoá kiến nghị xem xét giải quyết khó khăn liên quan đến thủ tục hành chính. Theo hiệp hội này, thời gian qua thủ tục hành chính đã được cải thiện, tuy nhiên khi doanh nghiệp đến giải quyết các thủ tục liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng, chấp thuận chủ trương đầu tư, tiếp cận đất đai… thì vẫn còn tình trạng kéo dài, gây khó cho doanh nghiệp.

“Bên cạnh đó một số cán bộ công chức có thái độ chưa đúng mực khi làm việc với doanh nghiệp, mặt khác một số cán bộ khi thực hiện phần việc mình phụ trách cho thấy hiểu biết còn hạn chế, thiếu thực tế, cứng nhắc nên những khó khăn tồn đọng của doanh nghiệp không được giải quyết kịp thời, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”, Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Thanh Hoá cho biết.

Còn Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đề nghị Chính phủ, bộ ngành đề xuất Quốc hội sớm ban hành Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luật về xử lý nợ xấu.

Ngoài ra, hiệp hội này cũng kiến nghị Chính phủ nghiên cứu thành lập các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, quỹ sáng kiến khởi nghiệp, tạo cơ chế cho sự phát triển của doanh nghiệp, kêu gọi vốn đầu tư, hình thành các vươn ươm khởi nghiệp để hỗ trợ các ý tưởng kinh doanh từ khi nghiên cứu đến lúc thực hiện hoá…

Theo N.Mạnh

Bizlive

Đọc tiếp »