Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

Những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 4/2017

Sẽ truy thu tiền lương trốn đóng BHXH, quy định hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo của Thanh tra ngành GTVT, đơn vị sử dụng NSNN được đăng ký rút tiền mặt qua mạng... là những chính sách mới có hiệu lực kể từ ngày 01/04/2017.

Xác định dự toán chi phí khảo sát xây dựng

Thông tư 01/2017/TT-BXD hướng dẫn xác định và quản lý chi phí khảo sát xây dựng, có hiệu lực từ ngày 1/4/2017.

Theo đó quy định 02 phương pháp xác định dự toán chi phí khảo sát xây dựng gồm:Xác định theo khối lượng và đơn giá khảo sát xây dựng; Xác định theo khối lượng hao phí vật liệu, nhiên liệu; nhân công; máy và thiết bị khảo sát và bảng giá tương ứng.

Tùy theo yêu cầu kỹ thuật, điều kiện cụ thể, khi thực hiện các công tác khảo sát xây dựng của từng công trình, dự án mà áp dụng 01 trong 02 phương pháp trên.

Đơn vị sử dụng NSNN được đăng ký rút tiền mặt qua mạng

Theo Thông tư số 13/2017/TT-BTC, đối với các khoản thu ngân sách Nhà nước bằng tiền mặt phát sinh tại Kho bạc Nhà nước thì thực hiện theo quy định hiện hành.

Trường hợp khoản thu ngân sách bằng tiền mặt phát sinh tại các đơn vị giao dịch thì đơn vị có trách nhiệm số tiền mặt đã thu vào tài khoản tại Kho bạc Nhà nước hoặc tài khoản Kho bạc Nhà nước mở tại ngân hàng thương mại.

Đối với khoản thu khác phát sinh tại Kho bạc Nhà nước thì người nộp tiền lập chứng từ để nộp tiền vào tài khoản của mình tại Kho bạc Nhà nước.

Thông tư cho phép các đơn vị sự nghiệp công lập có hoạt động dịch vụ và thu phí bằng tiền mặt được để lại một phần hoặc toàn bộ mở tài khoản chuyên thu tại ngân hàng thương mại và ủy nhiệm cho ngân hàng thương mại thu hộ. Thông tư số 13/2017/TT-BTC có hiệu lực ngày 1/4/2017.

Hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo của Thanh tra ngành GTVT

Ngày 24/01/2017, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư 01/2017/TT-BNV về phụ cấp chức vụ lãnh đạo đối với chức danh Đội trưởng, Phó Đội trưởng Đội nghiệp vụ thanh tra ngành Giao thông vận tải.

Theo đó, hệ số phụ cấp cho Đội trưởng, Phó Đội trưởng tại các đơn vị cụ thể như sau:

- Đội Thanh tra – An toàn của Cục Quản lý đường bộ thuộc Tổng cục Đường bộ Việt Nam: Đội trưởng là 0,50 và Phó Đội trưởng là 0,30.

- Đội Thanh tra – An toàn của Cục Đường sắt Việt Nam hoặc của Chi cục thuộc Cục Đường thủy nội địa Việt Nam: Đội trưởng là 0,40 và Phó Đội trưởng là 0,25.

- Đội nghiệp vụ thuộc Thanh tra Sở GTVT thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh: Đội trưởng là 0,30 và Phó Đội trưởng là 0,20.

- Đội nghiệp vụ thuộc Thanh tra Sở GTVT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn lại: Đội trưởng là 0,20 và Phó Đội trưởng là 0,10.Thông tư 01/2017/TT-BNV có hiệu lực từ ngày 01/4/2017.

Sẽ truy thu tiền lương trốn đóng BHXH

Ngày 16/02/2017 Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư 37/2017/TT-BQP hướng dẫn quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Bộ Quốc phòng. Theo đó:

Từ ngày 2/4/2017, sẽ truy thu, truy đóng tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc đối với người lao động, người sử dụng lao động trong trường hợp sau: Điều chỉnh tăng tiền lương tháng đã đóng BHXH cho NLĐ; Đóng bù thời gian chưa đóng của NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động; Trốn đóng, chậm đóng, chiếm dụng tiền đóng BHXH của NLĐ.

Không tính lãi chậm đóng đối với số tiền truy thu trường hợp điều chỉnh tăng tiền lương và đóng bù thời gian chưa đóng.

Chi tối đa 500.000 đồng/hồ sơ cho CBCC xử lý hồ sơ VPHC

Theo Thông tư 19/2017/TT-BTC về quyết toán kinh phí ngân sách cho công tác quản lý nhà nước về thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính (VPHC) có hiệu lực từ ngày 15/4/2017.

Theo đó, cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, đánh giá các văn bản, tài liệu trong hồ sơ xử phạt VPHC có nội dung phức tạp, phạm vi rộng, ảnh hưởng đến nhiều đối tượng được hỗ trợ tối đa 500.000 đồng/hồ sơ.

Ngoài ra, Thông tư còn hướng dẫn thêm một số khoản chi có tính chất đặc thù trong theo dõi thi hành pháp luật xử lý VPHC như:

- Chi tổ chức cuộc thi, hội thi công tác quản lý nhà nước về thi hành pháp luật xử lý VPHC theo quy định tại Thông tư liên tịch 14/2014/TTLT-BTC-BTP ;

- Chi mua, thuê trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về thi hành pháp luật xử lý VPHC theo quy định tại Quyết định 58/2015/QĐ-TTg;

- Chi công bố kết quả xử lý hồ sơ xử lý vi phạm hành chính trái pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng…

Quy định mới về tiền lương, phụ cấp của công nhân, viên chức quốc phòng

Ngày 24/02/2017, Chính phủ ban hành Nghị định 19/2017/NĐ-CP về chế độ tiền lương đối với công nhân quốc phòng và phụ cấp thâm niên đối với viên chức quốc phòng có hiệu lực từ 15/4/2017.

Theo đó, chế độ tiền lương đối với công nhân quốc phòng được quy định như sau:

Mức lương thực hiện bằng hệ số lương nhân với mức lương cơ sở theo quy định của Chính phủ.

Hệ số lương được quy định chi tiết tại Bảng lương ban hành kèm theo Nghị định; trong đó, phân thành ba loại A, B, C với 4 nhóm đối tượng, 10 bậc lương, hệ số cao nhất lên đến 6.65 và thấp nhất là 2.70.

Ngoài ra, quy định các loại phụ cấp, trợ cấp đối với công nhân quốc phòng như sau:

Phụ cấp thâm niên vượt khung; Phụ cấp khu vực phụ cấp đặc biệt; Phụ cấp độc hại nguy hiểm; Phụ cấp trách nhiệm công việc; Phụ cấp công vụ; Phụ cấp, trợ cấp công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Từ năm 2020, bắt buộc dán nhãn năng lượng đối với xe gắn máy

Đây là nội dung được quy định tại Quyết định 04/2017/QĐ-TTg về danh mục phương tiện, thiết bị phải dán nhãn năng lượng, áp dụng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu và lộ trình thực hiện.

Theo đó, nhóm phương tiện giao thông vận tải (GTVT) phải dán nhãn năng lượng và áp dụng hiệu suất năng lượng tối thiểu gồm: Xe mô tô, xe gắn máy;Xe ô tô con loại 9 chỗ trở xuống (Hiện nay chỉ yêu cầu dán nhãn đối với ô tô con từ 7 chỗ trở xuống).

Lộ trình thực hiện dán nhãn năng lượng đối với nhóm phương tiện GTVT (sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới) được quy định như sau:

- Thực hiện dán nhãn năng lượng tự nguyện đối với: Xe mô tô, xe gắn máy đến hết 31/12/2019; Xe ô tô con loại trên 7 chỗ đến 9 chỗ đến hết ngày 31/12/2017;

- Thực hiện dán nhãn năng lượng bắt buộc đối với: Xe mô tô, xe gắn máy từ ngày 01/01/2020;Xe ô tô con loại 7 chỗ trở xuống; Xe ô tô con trên 7 chỗ đến 9 chỗ từ ngày 01/01/2018.

Quyết định 04/2017/QĐ-TTg có hiệu lực từ ngày 25/4/2017.

Theo Hồng Vân

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

4 quốc gia này có gì mà được coi là siêu hình mẫu khiến tất cả các nước trên thế giới muốn học tập?

Các nước Bắc Âu luôn đứng đầu tất cả các danh sách thống kê, từ mức độ cạnh tranh của nền kinh tế đến mức độ hạnh phúc hay sức khỏe. Họ đã tránh được cả sự cứng nhắc của các nền kinh tế Nam Âu lẫn tình trạng chênh lệch giàu nghèo mà Mỹ mắc phải.

Những quốc gia nhỏ bé thường đi tiên phong về cải cách. Cuối những năm 1980, người Anh dẫn đầu nhờ “chủ nghĩa Thatcher” và phong trào tư nhân hóa. Đảo quốc Singapore lâu nay vẫn là hình mẫu cho nhiều nhà cải cách. Và giờ đây, các quốc gia Bắc Âu sẽ đảm nhận vai trò này.

Thụy Điển , Đan Mạch, Na Uy và Phần Lan, 4 quốc gia Bắc Âu này đều đang làm khá tốt. Nếu được lựa chọn nơi sinh ra, chắc hẳn nhiều người sẽ muốn là một người Viking. Các nước Bắc Âu luôn đứng đầu tất cả các danh sách thống kê, từ mức độ cạnh tranh của nền kinh tế đến mức độ hạnh phúc hay sức khỏe. Họ đã tránh được cả sự cứng nhắc của các nền kinh tế Nam Âu lẫn tình trạng chênh lệch giàu nghèo mà Mỹ mắc phải.

Trong công thức thành công của các nước Bắc Âu có một chút may mắn về thời điểm: họ đã khéo léo thoát được khủng hoảng nợ trong những năm 1990. Tuy nhiên, có một lý do khác thú vị hơn. Và, đối với các chính trị gia trên khắp thế giới (đặc biệt là những nước phương Tây nặng nợ), các nước Bắc Âu đem đến nhiều bài học hữu ích cho quá trình cải cách khu vực công.

Từ "Pippi tất dài" đến hệ thống trường tư

Trong những năm 1970 và 1980, cũng giống như các nước khác, Bắc Âu dựa vào nguồn thu thuế để chi tiêu. Năm 1993, chi tiêu công của Thụy Điển lên tới 67% GDP. Astrid Lindgren, tác giả của bộ truyện Pippi tất dài, phải chịu mức thuế thu nhập hơn 100%. Rõ ràng mô hình này không hiệu quả: từ vị trí giàu thứ 4 thế giới năm 1970, đến năm 1993 Thụy Điển tụt xuống vị trí số 14.

Kể từ đó đến nay, Bắc Âu đã thay đổi. Tỷ trọng chi tiêu công trong GDP Thụy Điển đã giảm khoảng 18%, xuống mức thấp hơn Pháp và sẽ sớm thấp hơn Anh. Thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức 22%, thấp hơn nhiều so với Mỹ. Các nước Bắc Âu tập trung cân đối ngân sách bằng cách cải cách hệ thống lương hưu. Trong khi Mỹ thâm hụt ngân sách 7%, Thụy Điển chỉ thâm hụt 0,3% GDP.

Người Bắc Âu khá thực dụng. Miễn là hệ thống dịch vụ công cộng hoạt động tốt, họ không quan tâm ai là người cung cấp chúng. Đan Mạch và Na Uy cho phép các công ty tư nhân điều hành hệ thống bệnh viện công. Thụy Điển có hệ thống giáo dục độc nhất vô nhị trong đó các trường tư kinh doanh vì lợi nhuận cạnh tranh sòng phẳng với trường công.

Các chính trị gia phương Tây muốn phát triển công nghệ và tăng tính minh bạch. Bắc Âu cũng vậy. Tất cả các trường học và bệnh viện bất kể công hay tư đều được đánh giá. Thụy Điển cho phép mọi công dân tiếp cận với các con số thống kê chính thức. Các chính trị gia sẽ mắc phải bê bối lớn nếu như bị phát hiện không đi xe đạp mà dùng xe limousine. Quê hương của Skype và Spotify cũng tiên phong trong lĩnh vực chính phủ điện tử: người dân có thể nộp thuế chỉ bằng 1 tin nhắn SMS.

Người Bắc Âu chứng minh rằng hoàn toàn có thể kết hợp chủ nghĩa tư bản với nhà nước lớn. 30% lao động làm trong khu vực công (so với mức trung bình 15% của các nước thuộc nhóm OECD). Họ là những người ủng hộ thị trường tự do sẽ không nhúng tay giải cứu các công ty mang tính biểu tượng. Thụy Điển đã để Saab phá sản và Volvo thì đã bán mình cho 1 công ty Trung Quốc.

Thứ mà người Bắc Âu coi trọng là những giá trị dài hạn. Na Uy có quỹ đầu tư quốc gia 600 tỷ USD luôn cố gắng tìm kiếm những khoản đầu tư sinh lợi. Đan Mạch có hệ thống cho phép các chủ sử dụng lao động sa thải nhân viên dễ dàng hơn nhưng bên cạnh đó những người thất nghiệp được hỗ trợ rất tốt. Ở Phần Lan thì có hệ thống quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động hiệu quả.

Không có gì là hoàn hảo

Tuy nhiên, mô hình các nước Bắc Âu không thực sự hoàn hảo. Mức thuế chưa đủ hấp dẫn để giữ chân các doanh nhân trẻ. Ở London tràn ngập những người Thụy Điển trẻ tuổi tài năng. Ở Bắc Âu cũng có quá nhiều người (đặc biệt là người nhập cư) lười biếng sống dựa vào trợ cấp. Những áp lực đã buộc các nước phải cắt giảm chi tiêu (ví dụ như môi trường cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt) sẽ ngày càng lớn và đòi hỏi sự thay đổi.

Dẫu vậy, ở thời điểm hiện tại, đây vẫn là mô hình mà các nước phải học tập. Khi Thủ tướng Đức Angela Merkel vạch ra sự thật rằng EU chiếm 7% dân số thế giới nhưng số tiền chi cho phúc lợi xã hội chiếm một nửa, bà nên nhìn sang các nước Bắc Âu. Na Uy vẫn là hình mẫu về an sinh xã hội mà Trung Quốc muốn noi theo.

Bài học lớn nhất, hữu ích nhất từ các nước Bắc Âu không phải về tư tưởng mà là về thực tiễn. Họ xây dựng Chính phủ lớn nhưng đó là Chính phủ làm việc hiệu quả. Người Thụy Điển nhiệt tình nộp thuế hơn người Mỹ bởi đổi lại họ sẽ được nhận dịch vụ giáo dục và y tế miễn phí.

Các nước Bắc Âu đã chứng minh rằng bạn có thể kết hợp giữa cơ chế thị trường với an sinh xã hội để đạt hiệu quả cao nhất. Bạn có thể đặt nền móng vững chắc cho các chương trình an sinh xã hội để người gia không rơi vào cảnh “ăn bám” con cháu. Bí quyết là các nước phải sẵn sàng loại bỏ tham nhũng và lợi ích nhóm, cũng như sẵn sàng bỏ qua những tư tưởng bảo thủ. Dù vẫn có khiếm khuyết, trong nhiều năm nữa Bắc Âu vẫn là mô hình mà thế giới ca ngợi và học theo.

Theo Thu Hương

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Việt Nam tuột mất 1 tỷ USD từ Apple

Sau khi đánh giá Việt Nam và Ấn Độ, Apple đã lựa chọn Ấn Độ để xây dựng dự án công nghệ có vốn đầu tư 1 tỷ USD. Đó là thông tin vừa được chia sẻ tại buổi họp báo về bất động sản công nghiệp.

Ông Đặng Văn Quang, đại diện JLL tại Việt Nam, chia sẻ, đây là thông tin rất buồn. Năm ngoái, Apple , tập đoàn công nghệ của Mỹ, đã tìm kiếm khu vực châu Á để phát triển dự án nhà máy sản xuất trị giá khoảng 1 tỷ USD. Sau khi đánh giá các nước trong khu vực, Apple đã có 2 sự lựa chọn là Việt Nam và Ấn Độ. Tuy nhiên, vì một số lý do đáng tiếc, đại gia công nghệ này đã lựa chọn Ấn Độ.

“Nếu như ai đấy thu hút được Apple vào, ngoài dự án 1 tỷ USD, còn đóng góp rất lớn như thuế, công ăn việc làm,... quan trọng hơn cả là mang lại thương hiệu cho quốc gia đó về mặt phát triển bất động sản công nghiệp”, ông Quang đánh giá.

Theo ông Quang, dự án này chỉ khoảng 1 tỷ USD, nhỏ hơn so với Samsung, nhưng nếu như đón được Apple vào sẽ là tiền đề cho rất nhiều doanh nghiệp tương tự đầu tư vào Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam và Ấn Độ là hai nước đang có lợi thế trong việc đầu tư các dự án công nghệ cao. Tuy nhiên, Ấn Độ có nhiều ưu đãi và hạ tầng phát triển nên được đánh giá cao hơn so với Việt Nam. Trong lĩnh vực công nghê, Samsung đang là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất với tổng số vốn lên tới hàng tỷ USD.

Liên quan tới bất động sản công nghiệp, theo JLL tại Việt Nam, quý I/2017, Việt Nam đã thu hút được 7,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tăng 77,6% so với cùng kỳ năm 2016. Theo khảo sát của JLL, vốn FDI chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 6,5 tỷ USD, chiếm tới 84,9% tổng FDI vào Việt Nam. Hoạt động kinh doanh bất động sản thu hút khoảng 344 triệu USD, chiếm 4,5% tổng vốn FDI.

Dòng vốn FDI vào công nghiệp và bất động sản tiếp tục tăng cũng là yếu tố thuận lợi để phát triển và thu hút hoạt động đầu tư vào các khu công nghiệp.

Theo đánh giá của JLL, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp được dự kiến sẽ gia tăng đáng kể nhờ vào nhu cầu tăng mạnh về các loại hình bất động sản công nghiệp của các nhà đầu tư nội địa và nước ngoài do làn sóng dịch chuyển của các khu công nghiệp, đặc biệt là Trung Quốc.

Ngoài ra, tín hiệu tích cực khác đã xuất hiện ở thị trường này là một số lượng đáng kể các khu công nghiệp xanh với công nghệ kỹ thuật hiện đại, dự kiến sẽ được đưa vào hoạt động trong thời gian tới.

Theo Duy Anh

Vietnamnet

Đọc tiếp »

Lấn cấn gói vay 100 ngàn tỷ cho nông nghiệp: Doanh nghiệp lo không dễ “xơi”

Các doanh nghiệp (DN) làm nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) xác định: 100 nghìn tỷ đồng là gói vay thương mại, chứ không phải Nhà nước cho không, ngân hàng phải chịu rủi ro, nên chắc chắn không dễ “xơi”. Ngân hàng muốn cho vay an toàn buộc phải tính toán, cho vay “đúng người, đúng việc”, có hiệu quả.

Không dễ “xơi”

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Cty CP Nafoods (Nghệ An) - một trong những nhà sản xuất, xuất khẩu sản phẩm chanh leo hàng đầu châu Á cho rằng, để làm NNCNC, đặc biệt trong ngành hàng rau quả, cần có diện tích đất đủ lớn. Nafoods đang thực hiện vùng liên kết trồng nguyên liệu khoảng 400 ha; chưa kể phần liên kết ở Lào hơn 1.000 ha…

Tuy nhiên, theo ông Hùng, vấn đề ở chỗ, nếu DN có đất và đất đó đi thuê, dân vẫn nắm sổ đỏ, liệu ngân hàng khi đánh giá, ngoài tài sản trên đất, họ có cho tín chấp phần đất mà DN thuê? “Đã là dự án công nghệ cao, đánh giá khả thi, được phê duyệt dự án rồi thì cần thông thoáng hơn cho DN, chấp nhận phương thức tín chấp. Cái cần gỡ là chỗ này”- ông Hùng nói.

Ông Hùng cho rằng, nếu bắt buộc DN phải có sổ đỏ một diện tích rất lớn cho sản xuất, sẽ hiếm DN nào đáp ứng được. Mặt khác, hiện với đất nông nghiệp, ngân hàng thường chỉ đánh giá tài sản trên đất, chứ không tính phần đất vào đánh giá cho vay. “Trên thực tế, để lấy được phần đất sản xuất đó, DN đã bỏ tiền ra rất nhiều, nhưng ngân hàng không đánh giá. DN nếu thuê được 20 năm, cũng là một dạng pháp lý, cam kết làm ăn của DN, nên ngân hàng cần “cởi” chỗ này”- ông Hùng kiến nghị.

Nói về gói tín dụng 100 nghìn tỷ trên, ông Đặng Quốc Tuấn, Phó Tổng giám đốc điều hành Tập đoàn Việt Úc - một trong những DN đi đầu trong lĩnh vực tôm giống công nghệ cao ở Việt Nam cho rằng, đây là cơ hội để tăng giá trị xuất khẩu tôm nước ta từ hơn 3 tỷ USD lên 10 tỷ USD trong thời gian tới.

Theo lãnh đạo Tập đoàn Việt Úc, việc nhà nước có thể hỗ trợ DN lãi suất qua hệ thống ngân hàng thương mại là cần thiết. “Để đẩy ngành tôm lên một tầm cao mới, không thể tay không bắt giặc mà phải đầu tư. Nếu làm giỏi, một đồng vốn được bốn đồng lời, nhưng trước hết cũng phải có đồng vốn đã để tận dụng cơ hội”- ông Tuấn nói.

Tuy nhiên, ông Tuấn cho rằng, dẫu nhu cầu vốn rất cao, nhưng DN không thể mong đợi quá được. Với ngân hàng, nếu cứ cho DN vay ồ ạt, mất vốn ai chịu? Do vậy, cần có cơ chế đánh giá công bằng và minh bạch, hạn chế khâu trung gian, tránh việc cho vay không đúng đối tượng.

“Nguồn vốn 100 nghìn tỷ đó, không phải là vốn xã hội để ban cho nhiều người. Chẳng hạn, mục tiêu là đưa ngành tôm từ hơn 3 tỷ USD lên 10 tỷ USD, phải chọn DN có khả năng sử dụng tốt vốn vay để phát triển ngành, chứ không nên nghĩ chia nhỏ, rải rác vốn, làm công tác xã hội, để mấy ông nhỏ làm sao cũng được thì không ổn”- ông Tuấn phân tích.

Ngân hàng sẵn sàng hay còn ngại?

Phát biểu trong cuộc họp tuần qua, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ lưu ý về gói vay trên với rất nhiều việc cần làm rõ, như: Khâu nghiên cứu, sản xuất, triển khai tiêu thụ, đối tượng cho vay, được hưởng gói vay thế nào? Phó Thủ tướng cũng lưu ý, dù gói vay này lãi suất thấp hơn thông thường, nhưng ở đây không có sự bao cấp của Nhà nước. Việc các ngân hàng cho vay trung, dài hạn bao nhiêu năm thì tuỳ, nhưng vấn đề phải công khai, minh bạch.

Theo Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Đồng Tiến, hiện các NHTM đã đăng kí sơ bộ hơn 100 nghìn tỷ đồng. Mức lãi suất thấp hơn 0,5-1%/năm so với lãi suất thông thường hiện nay. “Trước mắt chúng tôi sẽ lo trình sửa đổi Nghị định 55 về cho vay nông nghiệp, nông thôn, trong đó lưu ý đến các đặc thù cho vay NNCNC”, Phó Thống đốc Tiến nói.

Tổng giám đốc Agribank - ông Tiết Văn Thành cho biết, Agribank đã cam kết 50.000 tỷ đồng cho NNCNC ngân hàng tự cân đối được, mà không cần hỗ trợ của nhà nước, với lãi suất giảm khoảng 1,5%. Tuy nhiên ông Thành lưu ý, vướng mắc là quy hoạch địa phương, tiểu vùng, cây, con, ngành nghề chưa rõ, nên manh mún và mang tính tự phát rất nhiều. Hiện chỉ có Củ Chi (TPHCM), Đắk Lắk, Lâm Đồng có quy hoạch một phần.

Thực tế, sản xuất NNCNC giá trị lớn, diện tích rộng. DN khi tính toán thì mua bán theo giá thị trường, nhưng khi ngân hàng định giá cho vay, thì tính theo giá nhà nước do UBND các tỉnh quy định, nên giá trị đất - tài sản đảm bảo thấp, mức vay không cao.

Theo ông Thành, vốn đầu tư nhà lưới, kính, trang thiết bị khác rất lớn, nên khi có rủi ro chỉ bán sắt vụn rẻ mạt. Tuy nhiên, dù khó khăn nhưng Agribank vẫn xem xét lựa chọn phối hợp với từng địa phương để triển khai mang lại kết quả nhất định.

Trong khi đó, ông Phan Đức Tú, Tổng Giám đốc BIDV nói rằng, ngân hàng này sẽ đi theo hướng “chọn” người vay, có tư cách pháp nhân, phương án kinh doanh có hiệu quả. Về người vay, phải có năng lực tài chính, sản xuất kinh doanh, người có năng lực, kinh doanh thật sự. Phương thức cho vay sẽ triển khai phù hợp đối tượng, là vay ngắn, trung hay dài hạn.

“Chúng tôi cho vay các công đoạn, cho vay theo chuỗi hoặc cắt khúc ra. DN có thể kết hợp chuỗi, DN chỉ làm một công đoạn, ví dụ nghiên cứu khoa học…”, ông Tú nói.

Theo bà Đinh Thị Thái, Phó Tổng giám đốc Vietcombank, hiện cho vay nông nghiệp của Vietcombank đã lên tới 48.200 tỷ đồng.

“Vietcombank vừa cho vay 500 tỷ đồng dự án trứng gà sạch cách đây hơn 1 tháng, các dự án công nghệ cao chúng tôi đều chủ động tìm kiếm khách vay”- bà Thái nói. Đại diện nhiều NHTM lo ngại, cho vay lãi suất thấp trong khi rủi ro cao, nên ngân hàng ủng hộ, nhưng cần có cơ chế xử lý hỗ trợ.

“Những DN đàng hoàng, làm ăn tốt, ngân hàng sẽ tự tìm đến, và có thể lãi vay của họ thấp hơn lãi suất thị trường. Như vậy, nhà nước không cần hỗ trợ, DN cũng tiếp cận được vốn rẻ hơn. Bản chất của ngân hàng khi cho vay là đi bán rủi ro, rủi ro anh thấp thì lãi suất thấp, rủi ro cao thì chi phí lãi vay của anh cũng khác”

Ông Đặng Quốc Tuấn, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Việt Úc

Theo Phạm Anh - Khánh Huyền

Tiền phong

Đọc tiếp »

Căn bệnh Hà Lan trong nền kinh tế Việt Nam: Ngành nông nghiệp có mắc "lời nguyền"?

TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (thành viên Liên minh Nông nghiệp) cho rằng ngành nông nghiệp Việt Nam cũng có thể đang mắc “căn bệnh Hà Lan”. Thực tế, ngành nông nghiệp vẫn đang loay hoay tìm hướng phát triển, dù một số mặt hàng có sản lượng đứng đầu thế giới.

“Căn bệnh Hà Lan” là gì?

Năm 1959, Hà Lan phát hiện ra mỏ khí thiên nhiên có trữ lượng lớn. Xuất khẩu đã tăng vọt sau khi Hà Lan quyết định bán đi nguồn tài nguyên này. Lượng lớn ngoại tệ đã về với Hà Lan sau những lô hàng đầu tiên. Tuy nhiên, điều này lại khiến đồng Guilder (nội tệ Hà Lan khi đó) mạnh lên. Các lĩnh vực khác của nền kinh tế trở nên kém cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Đầu tư doanh nghiệp sụt giảm nghiêm trọng.

Hà Lan buộc phải giữ mức lãi suất thấp nhằm kìm hãm sự tăng giá quá nhanh của đồng nội tệ. Đồng thời, Chính phủ Hà Lan cũng tăng đầu tư vào nhiều lĩnh vực để vực dậy các ngành sản xuất. Nhưng Chính phủ Hà Lan đã không sử dụng tốt nguồn tiền thu về. Nhiều lĩnh vực đầu tư kém hiệu quả vẫn liên tục được rót vốn. Hệ quả là khu vực chế tạo bị suy giảm nặng nề, nhiều nhà đầu tư rời bỏ Hà Lan, hạn chế tiềm năng kinh tế trong tương lai.

Thuật ngữ “căn bệnh Hà Lan” được đặt ra năm 1977. Đó là tên gọi một loại nguy cơ kinh tế xảy ra khi đẩy mạnh xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên dẫn tới làm suy giảm ngành công nghiệp chế tạo - một hiện tượng giảm công nghiệp hóa. Đôi khi, thuật ngữ “căn bệnh Hà Lan” được dùng để chỉ nguy cơ xảy ra khi sự phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài dẫn tới suy giảm của nguồn lực trong nước.

Việt Nam có thể đang mắc “căn bệnh Hà Lan”

Nhiều dấu hỏi về “căn bệnh Hà Lan” đã được đặt ra trong bối cảnh nền kinh tế trong nước gặp rất nhiều khó khăn, kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Trong bài viết “Kinh tế Việt Nam vì đâu nên nỗi?” đăng trên Vneconomy năm 2013, ông Huỳnh Thế Du, giảng viên chính sách công tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright đã cho rằng Việt Nam bị nhiễm “căn bệnh Hà Lan”.

Trong khi dòng vốn FDI ồ ạt đổ vào nền kinh tế Việt Nam, thì khu vực trong nước đã từ bỏ việc tận dụng lợi thế để tập trung sản xuất kinh doanh và chuyển sang đầu cơ tài sản. Theo ông Huỳnh Thế Du, chính "căn bệnh Hà Lan" đã làm tổn hại nghiêm trọng sức cạnh tranh của khu vực sản xuất, hơn 50 ngàn doanh nghiệp phá sản trong năm 2012.

Mới đây, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia - TS Lê Xuân Nghĩa đã bày tỏ quan điểm từ bỏ giấc mơ “cường quốc công nghiệp”. Theo ông Nghĩa, Việt Nam nên có định hướng để trở thành một cường quốc về du lịch, nông phẩm và nông phẩm chế biến. Bởi vì, thắng cảnh và nông sản nhiệt đới vẫn là lợi thế lâu nay của Việt Nam được bạn bè quốc tế công nhận.

Tuy nhiên, TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (thành viên Liên minh Nông nghiệp) cho rằng ngành nông nghiệp Việt Nam cũng có thể đang mắc “căn bệnh Hà Lan”. Thực tế, ngành nông nghiệp vẫn đang loay hoay tìm hướng phát triển, dù một số mặt hàng có sản lượng đứng đầu thế giới.

“Sự màu mỡ hàng trăm năm nay ở đồng bằng sông Cửu Long đã cứu dân tộc mình khỏi đói khổ. Nhưng nó cũng là một lời nguyền của những nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Những nơi có quá nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi thì không thể phát triển được các tố chất khác của con người về trí óc, kỹ năng” – ông Thành nói.

Người Anh, người Nhật hay người Do Thái không có tài nguyên nên họ buộc phải phát triển chính bản thân mình. Nếu mỗi người chúng ta nhẹ nhàng cải tạo theo hướng nâng cao trí tuệ ngay từ bây giờ, ông Thành nghĩ rằng Việt Nam cũng sẽ không đến nỗi kém trong tương lai.

Theo Vương Diệu Quân

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Bỏ nhiều quy định áp đặt trong hỗ trợ doanh nghiệp

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho biết đã bỏ các quy định mang tính áp đặt về các nội dung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa...

Gửi xin ý kiến đại biểu dự thảo mới nhất của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho biết đã bỏ các quy định mang tính áp đặt về các nội dung hỗ trợ.

Thảo luận từ kỳ họp thứ hai của Quốc hội, một số vị đại biểu cho rằng, các nội dung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa phù hợp với nguyên tắc thị trường, có thể dẫn đến tình trạng bao cấp. Và một số quy định có thể "làm khó" hoạt động ngân hàng.

Bỏ cấp bù lãi suất

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết đã tiếp thu, chỉnh sửa các nội dung hỗ trợ để bảo đảm phù hợp với nguyên tắc thị trường.

Cụ thể, về tiếp cận tín dụng, dự thảo luật đã bỏ các quy định mang tính áp đặt, can thiệp trực tiếp đến hoạt động của hệ thống ngân hàng, không phù hợp nguyên tắc thị trường. Như bỏ quy định về cung cấp khoản vay với lãi suất và thời hạn vay vốn phù hợp với khả năng thanh toán của doanh nghiệp nhỏ và vừa và tình hình tài chính của ngân hàng.

Quy định trong từng thời kỳ, Chính phủ sử dụng ngân sách nhà nước thực hiện cấp bù lãi suất và các hình thức khác để hỗ trợ các ngân hàng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đã được bỏ.

Về hỗ trợ mặt bằng sản xuất, cơ quan chỉnh sửa dự án luật cho biết cũng đã bỏ quy định về hỗ trợ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp, nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng khu, cụm công nghiệp.

Dự thảo luật đã điều chỉnh lại theo hướng quy định chính sách hỗ trợ giá thuê đất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động sản xuất, kinh doanh trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao và cụm công nghiệp thông qua nhà đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp, khu công nghệ cao và cụm công nghiệp trong thời hạn 5 năm.

Quy định như dự thảo luật là nguyên tắc để tạo linh hoạt cho cơ quan có thẩm quyền cấp tỉnh căn cứ điều kiện ngân sách của địa phương quyết định hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp trên địa bàn.

Việc quy định thời hạn hỗ trợ tối đa 5 năm cũng nhằm giúp doanh nghiêp nhỏ và vữa, nhất là doanh nghiệp sản xuất, chế biến có động lực chuyển từ hoạt động phân tán bên ngoài vào trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao và cụm công nghiệp, góp phần bảo vệ môi trường, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giải trình.

Chủ yếu cho doanh nghiệp tư nhân

Bên cạnh nội dung hỗ trợ thì nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là vấn đề còn nhiều băn khoăn từ phía các vị đại biểu Quốc hội.

Nhiều ý kiến cho rằng với điều kiện ngân sách như hiện nay và việc thu hút các nguồn lực ngoài ngân sách được thể hiện chưa mạnh mẽ như trong dự thảo luật, thì việc bảo đảm nguồn lực hỗ trợ khó khả thi. Đề nghị hỗ trợ phải có trọng tâm, trọng điểm, phải cụ thể, theo lĩnh vực và cần cân đối nguồn lực để bảo đảm tính khả thi của chính sách, tránh dàn trải, chung chung.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, quy định ở dự thảo luật mới nhất đã chỉnh sửa theo hướng hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước và thu hẹp các đối tượng được hỗ trợ.

Để tránh quy định mang tính phân biệt đối xử, dự thảo luật được xử lý kỹ thuật theo hướng không quy định trực tiếp về việc loại bỏ doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn nhà nước ngay tại diều 2 về đối tượng áp dụng mà quy định tại điều 5 về nguyên tắc “Căn cứ vào điều kiện cụ thể trong từng thời kỳ, Chính phủ quy định nội dung hỗ trợ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn nhà nước”.

Căn cứ nguồn lực, một số hỗ trợ chung như thông tin, đào tạo, tư vấn, ươm tạo doanh nghiệp… thì vẫn hỗ trợ cho doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn nhà nước; trong khi sẽ có quy định cụ thể về một số hỗ trợ khác đối với đối tượng này.

Báo cáo giải trình nêu rõ, theo số liệu của Tổng cục thuế, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn nhà nước có doanh thu không quá 300 tỷ đồng chiếm khoảng 3% tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Những hỗ trợ khác như về ưu đãi thuế, hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh… sẽ do Chính phủ xem xét, quyết định và chủ yếu sẽ dành cho các doanh nghiệp tư nhân trong nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết.

Sau khi chỉnh sửa, quy định tại dự thảo luật tập trung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa có tiềm năng phát triển, hướng tới các đối tượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh.

Trên cơ sở đó, điều chỉnh lại nội dung hỗ trợ có liên quan đến sử dụng ngân sách nhà nước như nguồn tín dụng hỗ trợ từ nhà nước và nguồn vốn của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vữa, quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, theo hướng giới hạn và tập trung vào hỗ trợ nhóm doanh nghiệp nêu trên.

Trước khi trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ ba khai mạc cuối tháng 5, dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ được các vị đại biểu chuyên trách thảo luận vào đầu tháng 4 tới.

Theo Nguyễn Lê

VnEconomy

Đọc tiếp »

Lý thuyết này giải thích vì sao Vietjet Air phản đối còn Vietnam Airlines đồng ý áp giá vé máy bay

Các nhà kinh tế học Mỹ chứng minh trường hợp ý tưởng quy định giá sàn trong kinh doanh hàng không không hẳn tốt theo mô hình kinh tế về quy luật cung cầu.

Theo nguồn tin từ báo Lao Động, Cục Hàng không Việt Nam đang lấy ý kiến về dự thảo đối với giá dịch vụ vận chuyển hành khách hạng vé phổ thông trên các đường bay nội địa. Theo dự thảo này, Cục Hàng không đề xuất áp khung giá trần và cả giá sàn cho các đường bay nội địa. Theo đó, với đường bay Hà Nội - TP.HCM giá sàn sẽ là 1,1 triệu đồng/chiều.

Trái ngược với Jetstar, hãng hàng không giá rẻ Vietjet Air phản đối việc áp giá sàn với vé máy bay, bởi việc này không phù hợp với quy định của Luật Cạnh tranh và cũng không phù hợp với thông lệ quốc tế.

Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành đặt câu hỏi: Tại sao lại phải áp giá sàn cho vé máy bay? Tức là đồng nghĩa không cho phép hành khách được đi với một mức giá rẻ nào đó? Mặc dù là khách hàng trung thành của Vietnam Airlines nhưng ông Thành cho rằng sự thành công của Vietjet mới làm cho VietnamAirlines khá hơn. Và điều này định hình nên bộ mặt cũng như chất lượng của toàn bộ ngành hàng không Việt Nam.

Hãy xét về trường hợp thị trường hàng không tại Mỹ giai đoạn 1938-1978 khi Cục hàng không dân dụng Mỹ (CAB) quy định giữ giá vé sàn cao hơn mức cân bằng thị trường. Hiện các nhà kinh tế học chỉ một hiện tượng: Trong các chặng bay không bị quy định mức giá sàn CAB như giá của các chuyến bay trong một bang như giữa Los Angeles và San Francisco bằng một nửa giá của những chuyến bay có khoảng cách tương tự giữa các bang khác nhau. Các nhà kinh tế học cho rằng dường như CAB giữ giá của các chuyến bay cao gấp đôi mức thị trường.

Tại sao những nhà quản lý lại làm vậy? Thực tế CAB có lý lẽ của phía nhà điều hành là nhằm chống lại sự cạnh tranh về giá chuyển sang cạnh tranh về chất lượng giữa các hãng hàng không. Đây cũng điều mà Jetstar lập luận trong dự thảo cua Cục hàng không rằng cuộc chiến về hạ giá thành làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và sự phát triển bền vững của ngành hàng không, đồng thời giá vé thấp hơn ngành đường sắt sẽ tạo nên sự mất cân đối giữa ngành hàng không và các ngành vận tải khác.

Tuy nhiên các nhà kinh tế học Mỹ chứng minh trường hợp ý tưởng của CAB không hẳn tốt theo mô hình kinh tế về quy luật cung cầu. Do mức giá sàn do CAB quy định cao hơn mức cân bằng thị trường khiến sản lượng chuyến bay do các hãng hàng không sẵn sàng cung cấp ở mức ít hơn mức cân bằng thị trường cạnh tranh hoàn hảo.

Tất nhiên các hãng hàng không được lợi khi bán hàng hóa ở mức cao hơn chi phí bỏ ra nhưng lại bị giảm về sản lượng. Để đạt được mức sản lượng như trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, họ sẽ làm cách nào? Bằng chất lượng: Có thể bạn sẽ được tận hưởng ghế ngồi rộng hơn, đồ ăn miễn phí nhiều hơn, tiếp viên phục vụ nhã nhặn hơn,… Tuy nhiên sự gia tăng chất lượng cũng kèm theo chi phí nhưng chi phí này lớn hơn giá trị đem lại cho khách hàng. Điều này có thể xem là một dạng lãng phí chất lượng.

Sau đó, Chính phủ Mỹ xóa bỏ quy định này, kết quả là giá thành giảm, sản lượng tăng, lãng phí chất lượng biến mất. Điều này có nghĩa là người giàu nhận ra rằng sẽ không còn được phục vụ trên máy bay tốt như trước nhưng giá vé rẻ hơn nhiều và tổng thể số khách hàng vui vẻ vì được giảm giá lớn hơn số buồn lòng vì giảm dịch vụ.

Lưu ý các hãng hàng không luôn có thể đưa ra chất lượng dịch vụ tốt nếu khách hàng muốn trả cho nó. Nhưng phần đông đều muốn được nhưng được bay giá rẻ hơn dù dịch vụ có kém hơn một chút. Khi bỏ giá vé sàn khiến một số hãng hàng không truyền thống gặp vài vấn đề về chi trả phúc lợi công đoàn như đã hứa với nhân viên đến từ lợi nhuận được hưởng do ràng buộc cạnh tranh từ các hãng khác.

Một tác động khác là năm 1938 tại Mỹ có 16 hãng máy bay lớn nhưng đến năm 1974 con số chỉ còn 10 mặc dù có 79 hãng yêu cầu tham gia thị trường trong giai đoạn 1938-1978. Đây là bằng chứng cho việc bất hợp lý về phân bổ nguồn lực. Hãng máy bay giá rẻ bị loại ra khỏi thị trường ví dụ như Southweast Airlines, một trong những hãng hàng không lớn nhất thế giới bị loại ra khỏi thị trường khi tổng thể chi phí tăng.

Nếu việc áp giá sàn được Cục hàng không thực hiện trong thời gian tới, Vietjet Air có lẽ là doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn nhất. Hiện Vietjet Air là hãng hàng không giá rẻ tư nhân duy nhất tại Việt Nam.

Giá sàn trong ngành hàng không.

Thảo Nguyên

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »

Xuất khẩu cà phê 3 tháng đầu năm đạt 1 tỷ USD

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, xuất khẩu cà phê tháng 3 năm 2017 ước đạt 162 nghìn tấn với giá trị đạt 365 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 3 tháng đầu năm 2017 ước đạt 449 nghìn tấn và 1 tỷ USD.

Cũng theo báo cáo, giá cà phê xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2017 đạt 2.262 USD/tấn, tăng 32,3% so với cùng kỳ năm 2016.

Các thị trường có giá trị xuất khẩu cà phê trong 2 tháng đầu năm 2017 tăng mạnh là: Bỉ (gấp 2,3 lần), Hàn Quốc (79,3%), Hoa Kỳ (60%), Angieri (50,1%), Tây Ban Nha (33,6%), Đức (28,8%), Anh (27,4%), Nhật Bản (21%) và Italia(20,2%). Trong đó, Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2017 với thị phần lần lượt là 17% và 15,6%.

Về thị trường cà phê trong nước, giá biến động tăng trong tháng 3/2017 theo xu hướng tăng của thị trường cà phê thế giới. So với cuối tháng 2/2017, giá cà phê vối nhân xô các tỉnh Tây Nguyên tăng 2.000 – 2.200 đ/kg lên mức 46.000 – 46.900 đ/kg.

Bộ NN&PTNT cho rằng giá cà phê tăng do nguồn cung cà phê Robusta tiếp tục bị thắt chặt trong ngắn hạn. Tuy giá điều chỉnh tăng nhưng sức bán tại thị trường nội địa Việt Nam hầu như không đáng kể. Bên bán còn chần chừ với kỳ vọng giá còn tăng.

Trong 3 tháng đầu năm 2016, giá cà phê trong nước tăng với mức tăng 1.600 – 2.100 đ/kg. Thị trường được hỗ trợ bởi thời tiết khô hạn tại Brazil làm giảm sản lượng Robusta. Bên cạnh đó, nguồn cung cà phê Robusta bị thắt chặt do vụ thu hoạch không được như kỳ vọng tại Indonesia kết hợp với sự sụt giảm sản lượng tại Việt Nam.

Theo Minh Anh

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Tháng 3, giá ô tô con nhập khẩu giảm gần 100 triệu đồng/xe

So với tháng 2, lượng xe nhập về Việt Nam đã tăng hơn 5.000 chiếc, giá bình quân khai báo nhập khẩu giảm hơn 93 triệu đồng mỗi xe.

Báo cáo của Tổng cục Thống kê ước tính trong tháng 3 cả nước nhập khẩu hơn 13.000 ô tô nguyên chiếc, tổng giá trị nhập khẩu đạt 150 triệu USD. Giá bình quân xe con là 263 triệu đồng.

Trong khi đó, tháng 2/2017, Việt Nam chỉ nhập hơn 8.000 chiếc, trị giá 158 triệu USD. Trong đó có 4.078 xe con, chiếm hơn 50% lượng nhập, tương đương 63,7 triệu USD. Giá bình quân xe ô tô nhập vào khoảng 450 triệu đồng/xe; riêng xe con có giá bình quân là 356 triệu đồng/xe.

Tháng 3 năm ngoái, lượng xe nhập về là 8.500 chiếc, kim ngạch 208 triệu USD; xe con là 2.900 chiếc, kim ngạch 53 triệu USD. Giá xe bình quân là 557 triệu đồng, xe con là 416 triệu đồng/xe.

So sánh với hiện tại, lượng xe nhập đã tăng 4.500 chiếc với mức giá giảm hơn 294 triệu đồng/xe.

Còn so với cùng kỳ năm 2015, với lượng xe nhập tháng 3 đạt 10.000 chiếc, kim ngạch 267 triệu USD, trong đó xe con là 3.009 chiếc, kim ngạch 36,2 triệu USD. Giá xe bình quân là 608 triệu đồng/xe, trong đó xe con là 274 triệu đồng/xe.

Như vậy, lượng xe nhập thời điểm hiện nay đã tăng hơn 3.000 chiếc, giá khai báo xe bình quân đã giảm hơn 340 triệu đồng/chiếc.

Phía Tổng cục Hải quan cho biết, thị trường ô tô nhập khẩu hiện có sự thay đổi lớn từ nhập khẩu xe tải chuyển sang nhập khẩu xe du lịch dưới 9 chỗ ngồi trở xuống. Nếu như năm 2015 và nửa năm 2016, lượng nhập xe tải chiếm từ 50% đến hơn 40% thì từ giữa năm 2016 đến nay, lượng xe tải đã giảm rất mạnh, phần lớn thị trường xe hơi nhập khẩu thuộc về xe du lịch dưới 9 chỗ ngồi trở xuống.

Cụ thể, tính riêng nửa đầu tháng 3, trong số hơn 6.348 xe nguyên chiếc nhập về, có hơn 4.800 xe con, chiếm 75% lượng xe nhập. Cộng dồn đến hết ngày 15/3, trong số hơn 21.000 chiếc xe nhập, 66% lượng nhập là xe con dưới 9 chỗ ngồi trở xuống.

Lượng xe nhập khẩu tăng, giá giảm nhanh là do tốc độ tiêu thụ xe hơi của Việt Nam đang tăng trưởng lớn bởi thu nhập đầu người Việt Nam tăng lên và xu hướng tiêu dùng xe hơi đang phát triển.

Bên cạnh đó, mức giá xe giảm được cho là ảnh hưởng của thuế nhập khẩu xe hơi từ các ước ASEAN, trong đó 2 nước có lượng xe nhập vào Việt Nam lớn nhất là Thái Lan, Indonesia đã giảm từ 40% năm 2016 xuống còn 30% vào năm 2017 và 0% vào năm 2018 theo cam kết mở cửa thị trường với hàng hóa của ASEAN.

Ngoài ra, mức giá giảm cũng do ảnh hưởng thuế tiêu thụ đặc biệt điều chỉnh, đối với dòng xe dung tích thấp dưới 2.0L nhập khẩu vào Việt Nam đã giảm từ 45% xuống còn 40% từ tháng 7/2016 và giảm 5% vào những năm tiếp theo.

Những lý do này đã khiến các nhà nhập khẩu tăng cường nhập xe dung tích nhỏ vào Việt Nam, hạn chế các dòng xe dung tích lớn, thuế cao, khiến mức giá xe bình quân cũng giảm trông thấy.

Theo Nam Dương

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Một 'chiêu' kiểm soát: Lộ khoản thuế bị thất thu ngàn tỷ

Nhờ chiêu dán tem niêm phòng đồng hồ đo xăng, số lượng xăng dầu tiêu thụ và số thuế bảo vệ môi trường đã tăng vọt từ 10-20% so với trước. Điều này cho thấy, trước đây đã thất thu một lượng thuế khá lớn do kiểm soát không tốt.

Đây là một trong những kết quả tích cực trong công tác phòng chống thất thu ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực quản lý thuế xăng dầu.

Tại cuộc họp báo về vấn đề này chiều, 31/3, ông Đặng Ngọc Minh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho hay, kể từ khi áp dụng giải pháp dán tem niêm phong đồng hồ đo đếm lượng xăng dầu tiêu thụ tại từng cột xăng, các số liệu về thuế tính trên cơ sở sản lượng tiêu thụ xăng dầu như thuế bảo vệ môi trường đã tăng khả quan.

Ví dụ như tại Nghệ An, sau khi hoàn thành việc dán tem vào tháng 11/2015, số lượng xăng, dầu tiêu thụ và số thuế bảo vệ môi trường năm 2016 bình quân đã tăng khoảng hơn 20%. Đây là địa phương có 449 doanh nghiệp là đại lý, tổng đại lý và 514 cửa hàng xăng dầu, với 1.501 cột bơm xăng đã được dán tem niêm phong đồng hồ.

Tại Quảng Ninh, sau khi hoàn thành dán tem vào cuối tháng 11/2016, sản lượng tiêu thụ xăng dầu và số thuế bảo vệ môi trường cũng đã tăng bình quân tháng so với trước thời điểm dán tem khoảng xấp xỉ 15%. Đây là tỉnh có 178 cửa hàng bán xăng với 495 cột bơm xăng được dán tem.

Tương tự, tại các tỉnh có số lượng cửa hàng xăng dầu lớn như Thái Bình, Bình Định, doanh số tiêu thụ xăng dầu và thuế bảo vệ môi trường đều tăng 14%, ở Lâm Đồng đã tăng 10% so với trước thời điểm dán tem.

Ông Nguyễn Văn Phụng, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn, Tổng cục Thuế chia sẻ, việc dán tem niêm phong các đồng hồ tổng đo đếm xăng vẫn còn là giải pháp thủ công. Tuy nhiên, đây vẫn là cách thức hữu hiệu trong thời điểm hiện nay để kiểm soát việc gian lận trong kê khai thuế VAT và sử dụng hoá đơn thuế xăng dầu.

Theo ông Phụng, khi dán tem ở cột bơm xăng, sẽ tránh được việc lợi dụng thói quen của người dân mua xăng không lấy hoá đơn, lấy lượng xăng dầu đã bán này, dồn lại để làm hoá đơn, rồi lấy hoá đơn hôm qua gắn với ngày hôm nay.

"Về lâu dài, tham vọng của ngành thuế là kết nối đồng bộ phần mềm xuất hoá đơn xăng dầu xác thực với cơ quan thuế, dữ liệu bán xăng hàng ngày được "chạy" thẳng về cơ quan thuế. Tuy nhiên, với 23 đầu mối hiện nay, muốn triển khai được phải có tiềm lực tốt, cả về kỹ thuật, tài chính", ông Phụng cho hay.

Giải pháp trên xuất phát từ sáng kiến chống gian lận thuế xăng dầu do Cục thuế Nghệ An đề ra và tiên phong thực hiện.

Tại hội nghị tổng kết 10 năm Luật Phòng chống tham nhũng của Bộ Tài chính hồi tháng 1/2016, ông Lê Hà Dũng, Phó cục trưởng Cục thuế Nghệ An đã từng ước tính, cả tỉnh có khoảng 500 - 600 ngàn xe máy. Với tiêu thụ trung bình 10 lít xăng/tháng, ước tiền mua xăng của số xe máy trên phải là 1.200 tỷ đồng. Nhưng theo khai báo của các doanh nghiệp, chỉ có 100 tỷ đồng tiền mua xăng là không có hoá đơn, vậy thì 1.100 tỷ đồng tiền bán xăng thì hoá đơn đã đi đâu?

Từ đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã chỉ đạo toàn ngành thuế phải nhanh chóng nghiên cứu và nhân rộng mô hình kiểm soát chống thất thu ngân sách đối với thuế xăng dầu trên toàn quốc.

Theo báo cáo tổng hợp của Tổng cục Thuế tới thời điểm 30/3, cả nước đã có 46 tỉnh, thành phố hoàn thành 100% việc dán tem niêm phong tại các cột bơm xăng, 2 tỉnh là Đắk Nông, An Giang đang trong quá trình triển khai. Tổng số cột xăng đã được dán tem là 30.121 cột, chiếm 60% so với tổng số 50.000 cột bơm xăng của cả nước.

Theo Phạm Huyền

Vietnamnet

Đọc tiếp »

Thứ Năm, 13 tháng 4, 2017

Đây là lý do khiến việc tăng trưởng GDP quý I thấp nhất 3 năm không đáng lo ngại

Việc tăng trưởng GDP quý I/2017 thấp nhất 3 năm gần đây là do chủ động cắt giảm sản lượng khai thác dầu thô. Chính phủ vẫn kiên định thực hiện mục tiêu tăng trưởng do Quốc hội đề ra và quan tâm đến tính bền vững của tăng trưởng.

Trong cuộc Họp báo chính phủ thường kỳ tháng 3 diễn ra chiều nay, Đại diện Bộ Kế hoạch Đầu tư đã giải thích việc tăng trưởng GDP Quý I không cao nhưng xét về bản chất tăng trưởng là hợp lý. Theo đó, tăng trưởng GDP Quý I thấp nhất trong 3 năm gần đây là do sự chủ động giảm khai thác dầu thô của Chính phủ.

Cụ thể, nếu sản lượng khai thác bằng mức năm ngoái thì tăng trưởng quý I sẽ đạt 5,95% - cao hơn năm quý I năm 2016. Do chủ động giảm khai thác dầu khí từ mức 15 triệu tấn về 12,8 triệu tấn nên tăng trưởng quý I có sự chậm lại. Chỉ đạo của Thủ tướng là phải tăng trưởng bền vững, nên ngành khai khoáng giảm 9% sản lượng so với năm trước.

Bên cạnh đó, CPI quý I có bước tăng mạnh cũng là sự chủ động của Chính phủ khi thực hiện lộ trình tăng giá dịch vụ y tế và giáo dục vào tháng 3.

“Như vậy, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, cân đối lớn được bảo đảm và có sự kiểm soát” – đại diện Bộ Kế hoạch Đầu tư cho biết.

Điểm sáng trong quý I là niềm tin vào môi trường đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó thể hiện ở số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cao, FDI cũng đạt mức kỷ lục. Theo đại diện Bộ Kế hoạch Đầu tư, độ trễ của 2 yếu tố này sẽ giúp kinh tế tăng trưởng cao hơn trong các quý tiếp theo.

Chính phủ kiên quyết thực hiện mục tiêu tăng trưởng năm 2017 mà Quốc hội đề ra. Những giải pháp trong thời gian tới được đề ra là tiếp tục tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thực hiện nghiêm nghị quyết 35 và 19, thúc đẩy giải ngân nguồn vốn đầu tư (quý I chỉ đạt 12,2%).

Theo Vương Diệu Quân

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Thứ Sáu, 7 tháng 4, 2017

Bộ Tài chính bác đề xuất "Taxi truyền thống nộp thuế như Grab, Uber"

Bộ Tài chính chiều ngày 3/4 bác đề xuất taxi truyền thống được nộp thuế như Grab, Uber của Hiệp hội Taxi TP. HCM.

Bộ Tài chính chiều ngày 3-4 đã thông tin về ý kiến cho rằng “taxi truyền thống đang phải chịu khá nhiều loại thuế, phí với mức thuế suất chênh lệch khá xa so với Grab, Uber” của Hiệp hội taxi TP. HCM.

Trong văn bản phản hồi, Bộ Tài chính cho hay, ý kiến trên là chưa có cơ sở. Tuy nhiên, Bộ này cũng cho hay đang chỉ đạo rà soát trường họp có dấu hiệu rủi ro gian lận về thuế, cơ quan thuế sẽ thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp và xử lý theo quy định của pháp luật.

Trước đó, Hiệp hội đã kiến nghị cho doanh nghiệp kinh doanh taxi truyền thống được áp dụng cách tính doanh thu tính thuế như đã hướng dẫn đối với Uber, Grab hoặc cho taxi truyền thống nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) với thuế suất 5% thay vì 10% như hiện nay.

Trước kiến nghị này, Bộ Tài chính cho hay, theo Luật Thuế GTGT, doanh nghiệp kinh doanh vận tải (trong đó có vận tải taxi) nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì nộp thuế GTGT theo tỷ lệ % trên doanh thu là 3%, thuế GTGT của các chi phí đầu vào (như chi phí văn phòng, sửa chữa, mua sắm tài sản cô định...) không được khấu trừ.

Nếu doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT, doanh nghiệp áp dụng thuế suất thuế GTGT đối với dịch vụ vận tải là 10%, thuế GTGT phải nộp bằng thuế GTGT đầu ra trừ thuế GTGT đầu vào, được khấu trừ thuế GTGT của các chi phí đầu vào (như chi phí văn phòng, sửa chữa, mua tài sản cố định...).

Theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020, thuế suất thuế GTGT dần được quy vê áp dụng thống nhất 10%, thuế suất 5% chỉ áp dụng đối với hàng hóa thiết yếu và thuế suất 0% áp dụng đối với hàng xuất khẩu. Vì vậy, Bộ Tài chính khẳng định, kiến nghị “cho taxi truyền thống nộp thuế GTGT với thuế suất 5%” là không có cơ sở.

Về các loại thuế phí đối với Grab, Uber, Bộ khẳng định việc xác định doanh thu tính thuế của Uber và Grab là phù hợp với quy định của pháp luật về thuế hiện hành. Toàn bộ doanh thu từ hoạt động kinh doanh vận tải đều phải kê khai, nộp thuế. Đối với từng tốchức, cá nhân kinh doanh vận tải theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chia sẻ doanh thu có nghĩa vụ nộp thuế trên phần doanh thu được chia theo thỏa thuận hợp tác.

Nếu xác định doanh thu tính thuế của Uber, Grab là 100% doanh thu vận tải thu được từ khách hàng sẽ dẫn đến việc đánh thuế trùng và không hợp lý, vì trong số 100% doanh thu vận tải thu được từ khách hàng, Uber chỉ được hưởng 20% doanh thu vận tải; phần còn lại 80% doanh thu vận tải được chia cho tổ chức, cá nhân hợp tác với Uber theo thỏa thuận hợp đồng hợp tác kinh doanh và tổ chức, cá nhân này phải kê khai, nộp thuế theo quy định đối với phần doanh thu được hưởng.

Theo C.Sơn

Báo giao thông

Đọc tiếp »

Tạo ra cuộc cách mạng về chất cho hạt gạo Việt

Các Bộ, ngành, địa phương phải tiếp tục đổi mới, với tư duy kiến tạo, toàn diện, từ nền tảng thể chế, chính sách, pháp luật đến cấu trúc vận hành; tạo ra cuộc cách mạng về chất, một tầm nhìn mới, đi kèm với hoạch định chiến lược, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa để gạo Việt Nam đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng ở Châu Á và thế giới.

Chỉ đạo trên của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc được nêu trong Thông báo số 180/TB-VPCP.

Nước ta có tiềm năng lợi thế lớn về sản xuất lúa gạo, nhất là tại đồng bằng sông Cửu Long. Lúa gạo có vai trò không thể thay thế của nông nghiệp Việt Nam và cây lúa vẫn sẽ là sinh kế quan trọng của đa số nông dân. Phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam, đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục được khẳng định trong an ninh lương thực tầm quốc gia và quốc tế. Đây là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài.

Để lúa gạo đem lại giá trị gia tăng tốt nhất dựa trên việc đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn về dinh dưỡng và dược liệu. Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương phải tiếp tục đổi mới, với tư duy kiến tạo, toàn diện, từ nền tảng thể chế, chính sách, pháp luật đến cấu trúc vận hành, phương thức quản trị và công nghệ sản xuất lúa gạo; tạo ra cuộc cách mạng về chất, một tầm nhìn mới, đi kèm với hoạch định chiến lược, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa để gạo Việt Nam đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng ở Châu Á và thế giới, từ đó đem lại giá trị gia tăng cao hơn cho người trồng lúa và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu lúa gạo.

Thúc đẩy mô hình cánh đồng lớn

Trong thời gian tới, các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp cần khẩn trương điều chỉnh quy mô sản xuất lúa theo hướng mở rộng hạn điền phù hợp, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho người trồng lúa; thúc đẩy phát triển mô hình cánh đồng lớn, sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn. Hỗ trợ liên kết sản xuất hợp tác với các doanh nghiệp, phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới; gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ lúa gạo theo chuỗi giá trị; từng bước giảm số lao động nông nghiệp, chuyển sang ngành nghề khác.

Đồng thời, rà soát quy hoạch sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh lúa theo hướng sử dụng linh hoạt đất trồng lúa phù hợp với mục tiêu an ninh lương thực, tình hình thị trường và biến đổi khí hậu; cho phép chuyển đổi linh hoạt những vùng, vụ trồng lúa kém hiệu quả, vùng bị nhiễm mặn sang nuôi tôm, trồng các loại cây khác hoặc kết hợp nuôi trồng thủy sản để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn; cần tính toán nhu cầu trong nước, mức tăng trưởng hàng năm về nhu cầu của thế giới, khả năng vươn lên tự sản xuất của một số nước và khả năng vươn lên của gạo Việt Nam để có kế hoạch điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với từng giai đoạn.

Xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam

Thủ tướng cũng yêu cầu phải đổi mới quản lý khoa học công nghệ trong nông nghiệp, có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu chọn lọc, lai tạo giống lúa năng suất, chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu của thị trường; nghiên cứu sản xuất lúa gạo hướng tới đa mục tiêu, không những đảm bảo an ninh lương thực mà còn phải đẩy mạnh xuất khẩu, bảo đảm an toàn thực phẩm, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo thông qua áp dụng cơ giới hóa, sử dụng vật tư nông nghiệp do Việt Nam sản xuất; ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao vào sản xuất, chế biến sâu, bảo quản lúa gạo, giảm tổn thất sau thu hoạch; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ chất lượng vật tư nông nghiệp, khắc phục tình trạng sử dụng bất hợp lý phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất.

Chú trọng xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi hiện đại phục vụ tưới tiêu, các công trình ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và các công trình hạ tầng khác, hướng tới áp dụng cơ chế thị trường về giá nước trong sản xuất để tiết kiệm, sử dụng hiệu quả hơn.

Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, duy trì phát triển các thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng các thị trường xuất khẩu gạo mới, tiềm năng; xây dựng hệ thống thông tin thị trường, kịp thời giải quyết các rào cản kỹ thuật với các nước liên quan; xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam và thương hiệu của doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và thế giới; cải cách thủ tục hành chính, loại bỏ các "nút thắt" về thể chế, tạo "sân chơi" bình đẳng giữa các doanh nghiệp xuất khẩu gạo.

Theo Phương Nhi

Chinhphu.vn

Đọc tiếp »

EVN không được huy động vốn để đầu tư vào chứng khoán, ngân hàng

Nghị định số 10/2017/NĐ-CP của Chính phủ mới đây đã ban hành quy chế quản lý tài chính của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong đó yêu cầu EVN không được huy động vốn để đầu tư vào chứng khoán, ngân hàng, BĐS, tài chính.

Nghị định 10/2017/NĐ-CP cũng nêu rõ: EVN được quyền sử chủ động dụng vốn nhà nước đầu tư, các loại vốn khác, các quỹ do EVN quản lý vào các hoạt động kinh doanh được quy định trong Điều lệ tổ chức hoạt động của EVN; quản lý sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn có hiệu quả; báo cáo theo đúng quy định cho chủ sở hữu, Bộ Tài chính về việc doanh nghiệp hoạt động thua lỗ, không đảm bảo khả năng thanh toán, không hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ do chủ sở hữu giao hoặc trường hợp sai phạm khác để thực hiện giám sát theo quy định.

Việc đầu tư vốn ra ngoài EVN phải tuân thủ các quy định của pháp luật và đảm bảo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập và không làm thay đổi mục tiêu hoạt động của EVN.

EVN không được nhận đầu tư, góp vốn từ các công ty con của EVN (doanh nghiệp cấp II), từ các công ty con của doanh nghiệp cấp II (doanh nghiệp cấp III).

Theo Nam Dương

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Ngay trong tháng 4, NHNN sẽ chỉ đạo các NH cho vay gói tín dụng 100 nghìn tỷ đồng cho nông nghiệp công nghệ cao với lãi suất thấp

NHNN cho biết sẽ ban hành Quyết định hướng dẫn và chỉ đạo các ngân hàng thương mại dành nguồn vốn để cho vay với lãi suất thấp hơn từ 0,5-1,5%/năm so với lãi suất cho vay thông thường trong tháng 4/2017.

Liên quan đến gói tín dụng 100 nghìn tỷ đồng cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo chỉ đạo Chính phủ: Thực hiện chủ trương của Chính phủ về cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch NHNN cho biết đã đưa nội dung triển khai chương trình vào Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 01/1/2017 của Chính phủ và Chương trình hành động của ngành góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thực hiện Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP của Chính phủ.

Đồng thời tổ chức cuộc họp với các ngân hàng thương mại có dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn lớn để bàn về việc triển khai chương trình. Các ngân hàng thương mại đều ủng hộ chủ trương của Chính phủ và đã đăng ký số tiền hơn 100.000 tỷ đồng để cho vay các dự án có hiệu quả với lãi suất ưu đãi ở mức phù hợp.

Đây là chương trình không có sự hỗ trợ của Nhà nước nên việc cho vay phải đảm bảo đúng quy định, khách hàng có dự án hoạt động hiệu quả và có dự án/phương án sản xuất kinh doanh thuộc tiêu chí chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, danh mục công nghệ cao ứng dụng trong nông nghiệp theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Hiện nay, việc cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao gặp một số khó khăn cần tháo gỡ như vấn đề về tài sản bảo đảm, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp hoàn thiện các văn bản hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản trên đất nông nghiệp phục vụ cho việc sản xuất công nghệ cao như nhà kính, nhà lưới,.. để làm thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm, thế chấp cho khoản vay tại ngân hàng.

Ngoài ra, việc đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao thường có giá trị lớn, thời gian thu hồi vốn dài vì vậy cần phải có định hướng phát triển nông nghiêp công nghệ cao, đánh giá và dự báo về thị trường mục tiêu để việc đầu tư tín dụng hiệu quả.

Theo Kim Tiền

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

NCIF dự báo: Kinh tế Việt Nam quý II tăng trưởng 5,6%, cả năm đạt 6,2% thấp hơn mục tiêu đề ra

Theo dự báo của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF), quý II/2017, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5,6%, cả năm đạt 6,2%, thấp hơn mục tiêu 6,7% được Quốc hội thông qua.

Chia sẻ tại tọa đàm Dự báo kinh tế Quý II/2017 do Trung tâm Thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội quốc gia (NCIF) tổ chức sáng 5/4, TS Đặng Đức Anh, Trưởng ban Phân tích và dự báo cho biết, dựa vào mức tăng trưởng 5,1% quý I và các nền tảng kinh tế Việt Nam, NCIF đưa ra mức sự báo tăng trưởng GDP 5,6% cho quý II và 6,2% cho cả năm 2017, tương đương với năm 2016.

Cơ sở cho dự báo này là do trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng quý II thường hơn quý I từ 0,2 - 0,4 điểm phần trăm.

Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam đang dần hồi phục, theo đà phục hồi kinh tế thế giới. Cụ thể, niềm tin kinh doanh của các doanh nghiệp ổn định hơn, 51,2% doanh nghiệp Việt Nam tin rằng quý II sẽ có đơn hàng cao hơn quý I.

TS Đặng Đức Anh cho rằng, đầu tư khu vực tư nhân và FDI cũng sẽ khởi sắc trong quý II này. Công nghiệp chế biến chế tạo dự báo sẽ tiếp tục đà tăng trưởng cao hơn trong Quý I. Tuy nhiên vị chuyên gia cũng lưu ý, nhìn lại kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu là gia công.

Đưa ra con số nhập siêu 1,9 tỷ USD quý I, ông Đặng Đức Anh biết việc nhập khẩu quá nhiều nguyên liệu sản xuất càng củng cố việc nền kinh tế phát triển thiếu bền vững với việc gia công là chủ yếu.

"Đây là sự yếu kém của nền kinh tế khi vẫn phải nhập nhiều nguyên phụ liệu, chứng tỏ công nghiệp phụ trợ rất kém", ông nói.

Ở góc độ lạc quan hơn,TS. Cấn Văn Lực lại cho rằng đây có thể là nền tảng phục vụ cho sản xuất của các quý tới, kéo theo sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam khả quan trong thời gian tới.

Vị chuyên gia này cũng đưa ra dự báo lạc quan hơn NCIF với mức tăng trưởng cả năm rơi vào khoảng 6,3% - 6,5%, phần nhiều nghiêng về khả năng tăng trưởng GDP đạt 6,3%.

“Mức tăng trưởng này cũng là mức chung của nhiều tổ chức kinh tế thế giới khi dự báo về tăng trưởng của Việt Nam”, ông Cấn Văn Lực cho biết.

Theo N.D

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Việt Nam xuất khẩu ôtô: Quyết định “ngược dòng” của Thành Công, Trường Hải

Có phải Thành Công và Trường Hải đang quá tự tin hay thích “chơi trò” đầu tư mạo hiểm?...

Thay vì thuận theo xu hướng nhập khẩu, hai doanh nghiệp trong nước là Thành Công và Trường Hải đã quyết định tập trung đầu tư vào nhà máy để sản xuất, với mục tiêu xuất khẩu ôtô ra thị trường quốc tế.

Xu hướng chung

Các cam kết hội nhập quốc tế, cụ thể như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với quy tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) hay gần hơn và cũng sát sườn hơn là Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), đang khiến cho các mức thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc giảm dần.

Đặc biệt là ATIGA, theo lộ trình, kể từ năm 2018, tức là còn chưa đầy một năm nữa, thuế suất thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc từ các nước nội khối (Đông Nam Á) sẽ về mức 0%, mức thuế hiện hành của năm 2017 là 30%.

Việc giảm nhanh và thậm chí xóa bỏ thuế nhập khẩu đã và đang gây sức ép rất lớn lên ngành công nghiệp ôtô Việt Nam. Sau hơn hai thập niên hình thành và xoay sở với mục tiêu phát triển, công nghiệp ôtô trong nước vẫn chưa đạt được thành tựu nào thực sự đáng kể, ngoài các yếu tố như đóng thuế, giải quyết công ăn việc làm hay mạng lưới dịch vụ.

Xét về sản phẩm, ôtô sản xuất trong nước (CKD) vẫn có tỷ lệ nội địa hóa rất thấp, thậm chí với vài doanh nghiệp gần như không có, giá thành sản xuất cao và theo đó giá bán lẻ cũng cao, dẫn đến khả năng cạnh tranh với ôtô nhập khẩu nguyên chiếc (CBU) ngày càng yếu.

Đối với các nhà quản lý, thuế nhập khẩu giảm và tiến tới xóa bỏ trong khu vực Đông Nam Á sẽ khiến cho nỗ lực biến công nghiệp ôtô thành một ngành mũi nhọn đã được xác định từ hơn 20 năm trước đổ sông đổ bể. Nhưng với các doanh nghiệp ôtô, nhất là các liên doanh và một số doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, điều đó không quan trọng. Bởi suy cho cùng, kết quả kinh doanh và lợi nhuận mới là mục tiêu cuối cùng.

Trước tình thế đó, không có lý do gì để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các liên doanh không gia tăng tỷ trọng xe nhập khẩu để tìm kiếm lợi nhuận thay vì tiếp tục loay hoay với bài toán sản xuất trong nước.

Tất nhiên, để chắc chân tại thị trường Việt Nam và để tiếp tục nhận các chính sách ưu đãi, các doanh nghiệp nước ngoài vẫn giữ lại một số dòng sản phẩm có sản lượng lớn để sản xuất. Đây cũng là một lựa chọn hợp lý để các hãng xe tập trung tăng sản lượng cho số ít dòng xe, từ đó tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm giá thành nhằm tạo sức cạnh tranh tốt hơn trên thị trường.

Điểm tựa ngược dòng

Tuy nhiên, Trường Hải và Thành Công lại là trường hợp nhiều khác biệt.

Thay vì lựa chọn tăng tỷ trọng xe nhập khẩu, hai doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước này lại lựa chọn sản xuất và thậm chí tăng mạnh đầu tư ở thời điểm mà chưa đầy một năm nữa, thuế suất thuế nhập khẩu ôtô CBU từ ASEAN sẽ chính thức vể 0%.

Có phải Thành Công và Trường Hải đang quá tự tin hay thích “chơi trò” đầu tư mạo hiểm? Mạo hiểm là bởi thời gian để hai doanh nghiệp này đi đến đích trong kế hoạch của mình không còn nhiều nếu không nói là quá ngắn ngủi trước khi “cơn bão” ôtô CBU từ các nước trong khu vực như Thái Lan hay Indonesia tràn về.

Nhưng trên thực tế, cả Thành Công và Trường Hải đều có những điểm tựa của mình để đưa ra quyết định đầu tư bị xem là đi ngược xu hướng.

Trong ngành ôtô Việt Nam hiện nay, Trường Hải đã được xếp vào hàng “đại gia”, một thế lực thực sự. Ngay từ khi mới bước vào ngành ôtô cách đây 20 năm, doanh nghiệp này đã lựa chọn con đường đi lên từ xe tải, xe bus. Đây chính là lĩnh vực sản xuất đã và vẫn đang giúp Trường Hải ăn nên làm ra và hiện nay, tiếp tục trở thành một điểm tựa vững chắc, tạo động lực để Trường Hải tập trung nhiều hơn cho mảng ôtô du lịch.

Dễ hình dung hơn, khi đã chắc chân ở thị trường xe tải và xe bus, thậm chí một số dòng sản phẩm hầu như không phải cạnh tranh như xe khách giường nằm, Trường Hải không chỉ không phải bận tậm nhiều đến hai lĩnh vực này nữa mà còn được chính hai lĩnh vực này “đỡ” cho những bước phát triển mới của mảng xe du lịch.

Trong một lần trao đổi với người viết, Chủ tịch Trường Hải, ông Trần Bá Dương cho biết sở dĩ ngoài lĩnh vực chính là ôtô, ông làm thêm cả bất động sản và hiện cũng đang tăng cường cho lĩnh vực nông nghiệp theo chiến lược phát triển thành tập đoàn đa ngành, trong đó các lĩnh vực sẽ bổ trợ cho nhau.

Việc tối ưu chuỗi giá trị từ sản xuất, vận chuyển đến phân phối và bán lẻ cũng chính là một “món bảo hiểm” cho tham vọng sản xuất và xuất khẩu xe du lịch của Trường Hải. Không hề ngẫu nhiên mà trong hai năm trở lại đây, Trường Hải có thể liên tiếp giảm giá đến mức gây sốc cho thị trường đối với các loại xe Kia và nhất là Mazda, từ đó tìm đến một điều kiện cần là đủ dung lượng thị trường, tiến tới đáp ứng điều kiện đủ là tăng tỷ lệ nội địa hóa lên ít nhất 40%. Có điều kiện cần và đủ, việc Trường Hải xuất khẩu ngược ôtô du lịch Mazda ra thị trường Đông Nam Á theo thuế suất 0% rõ ràng là một viễn cảnh không quá xa vời.

Hiện thực hóa tham vọng xuất khẩu ngược, ngay giữa tháng 3/2017, Trường Hải đã tiến hành xây dựng nhà máy sản xuất ôtô Mazda mới với tổng vốn đầu tư 12.000 tỷ đồng, tổng công suất 100.000 xe/năm.

Tham vọng giống nhau nhưng con đường mà Thành Công đi lại có nhiều khác biệt. Trong hàng “ông lớn” của ngành ôtô Việt Nam hiện nay, Thành Công là cái tên non trẻ nhất. Sau khi tập đoàn Hyundai dừng hợp tác với Công ty Cổ phần Hyundai Việt Nam (HMV), năm 2009 tập đoàn Thành Công mới chính thức trở thành đối tác mới của hãng xe Hàn Quốc.

Ngay sau khi ra đời, cũng với thế mạnh doanh nghiệp đa ngành, trong đó có lĩnh vực cơ khí, Thành Công tập trung chia sẻ lợi nhuận giữa các lĩnh vực khác nhau và tiết kiệm chi phí tối đa để dồn lực tăng nhanh thị phần cho Hyundai. Đến nay, sau 8 năm phân phối và một phần tham gia lắp ráp, Hyundai do Thành Công sản xuất và phân phối đã trở thành thương hiệu ôtô du lịch lớn thứ hai tại Việt Nam.

Cuối tháng 3/2017, Thành Công chính thức lập liên doanh với tập đoàn Hyundai Hàn Quốc để tập trung cho mục tiêu sản xuất và xuất khẩu ra thị trường thế giới, gần nhất là thị trường khu vực Đông Nam Á.

Trên thực tế, hiện Thành Công cũng đã và đang lắp ráp hai mẫu xe Hyundai tại nhà máy Ninh Bình, bên cạnh việc nhập khẩu và phân phối 6 mẫu xe khác. Việc lập liên doanh mới với Hyundai như một đòn bẩy giúp Thành Công bật cao hơn trong mục tiêu xuất khẩu.

Theo kế hoạch, sau khi lập liên doanh mới, Hyundai Hàn Quốc sẽ chuyển giao công nghệ với những dây chuyền và máy móc hiện đại nhất cho Thành Công và cùng nhau xây dựng nhà máy mới để xuất khẩu.

Dự kiến sau khi hoàn thiện nhà máy mới, liên doanh Hyundai - Thành Công sẽ bắt tay vào sản xuất thêm hai mẫu xe mới là i10 và Tucson, bên cạnh 2 mẫu xe CKD hiện nay là Elantra và Santa Fe. Trong đó, mẫu xe cỡ nhỏ i10 đang được Hyundai Thành Công nhập khẩu từ Ấn Độ nằm trong nhóm xe bán chạy nhất thị trường.

Một điểm tựa khá vững chắc cho mục tiêu xuất khẩu của Hyundai - Thành Công là hiện nay, tại khu vực Đông Nam Á, Hyundai chỉ có nhà máy với công suất rất nhỏ đặt tại Indonesia và Malaysia. Đáng chú ý, cả hai nhà máy này đều được đầu tư bởi doanh nghiệp nội địa. Trong khi đó, liên doanh Hyundai - Thành Công gần như một ngoại lệ bởi rất hiếm khi tập đoàn ôtô Hàn Quốc thực hiện hình thức liên doanh với các doanh nghiệp tại mỗi thị trường khác nhau.

Tình thế của Trường Hải (Mazda) cũng gần như tương tự với Hyundai - Thành Công khi ở khu vực Đông Nam Á, hãng xe Nhật Bản cũng chỉ có một nhà máy nhỏ đặt tại Thái Lan theo hình thức chuyển giao công nghệ.

Theo Đức Thọ

VnEconomy

Đọc tiếp »

Cần chính sách tín dụng riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa?

Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến 90% tổng số doanh nghiệp nhưng dư nợ lại chỉ chiếm có 27%...

Sáng 5/4, dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được thảo luận tại hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách.

Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế - cơ quan thẩm tra dự án luật - Vũ Hồng Thanh cho biết, qua thảo luận tại kỳ họp Quốc hội thứ hai, có ý kiến cho rằng cần có cơ chế mạnh hơn để doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Vì nội dung dự thảo luật còn chung chung, chưa khuyến khích được các tổ chức tín dụng cho vay vốn, khó khả thi trong thực tế.

Theo Uỷ ban Kinh tế, dự thảo luật đã được tiếp thu, chỉnh sửa theo hướng quy định trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ có cơ chế, biện pháp khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tăng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa để phù hợp đặc điểm, tình hình của từng thời kỳ.

Quy định khuyến khích tổ chức tín dụng cho vay doanh nghiệp dựa trên xếp hạng tín nhiệm và các biện pháp phù hợp khác cũng được bổ sung.

Ủy ban Kinh tế giải thích, nội dung này sẽ được hướng dẫn tại nghị định và do Chính phủ quyết định. Trong từng thời kỳ, tùy điều kiện ngân sách, Chính phủ sẽ quyết định các biện pháp, không làm ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ, tài khóa, tín dụng. Một số biện pháp đã thực hiện thời gian qua như tái cấp vốn (giống như gói tín dụng 30.000 tỷ hỗ trợ nhà ở), hỗ trợ cấp bù lãi suất (giống như đang áp dụng trong lĩnh vực nông nghiệp)...

Cơ quan thẩm tra cũng cho biết, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có dự án thực sự đem lại hiệu quả nhưng không có tài sản bảo đảm, đáp ứng đủ điều kiện tiếp cận nguồn vốn của các tổ chức tín dụng thông qua hình thức cho vay tín chấp, ngoài việc tăng cường, củng cố chức năng, nhiệm vụ của quỹ bảo lãnh tín dụng, dự thảo luật còn giao nhiệm vụ cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức, cơ quan hữu quan cung cấp cơ sở dữ liệu thông tin về khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa để các tổ chức tín dụng và các tổ chức xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Báo cáo của Uỷ ban Kinh tế nêu rõ, trên thực tế doanh nghiệp nhỏ và vừa thường khó tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng vì năng lực quản trị hạn chế, tài sản bảo đảm ít, phương án, dự án kinh doanh, vay vốn xây dựng không bài bản, hệ thống sổ sách tài chính, kế toán thiếu minh bạch, tiềm lực tài chính yếu, dễ bị rủi ro.

Do vậy, dự thảo luật mới nhất đã bổ sung quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa được hỗ trợ nâng cao năng lực tiếp cận tín dụng thông qua các cơ quan, tổ chức và cá nhân hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để tư vấn xây dựng phương án sản xuất kinh doanh khả thi, nâng cao năng lực quản trị, minh bạch hoạt động của doanh nghiệp.

Khẳng định hiện nay vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn ách tắc, đại biểu Đinh Duy Vượt (Gia Lai) nêu con số khu vực doanh nghiệp này chiếm đến 90% tổng số doanh nghiệp nhưng dư nợ lại chỉ chiếm có 27%.

Ông Vượt cho rằng trong bối cảnh nguồn lực khó khăn, nợ xấu, nợ công cao thì cần có chính sách tín dụng riêng và có bộ phận tín dụng riêng cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trong khi tất cả các nguồn lực đều yếu, nếu dự thảo luật không quy định cụ thể thì các tổ chức tín dụng có thể cho vay cũng được, không cho vay cũng được - ông Vượt phát biểu.

Bên cạnh hỗ trợ tín dụng, nhiều hỗ trợ khác với doanh nghiệp cũng được cho là còn chung chung, thiếu cụ thể, khó khả thi.

Dự thảo luật quy định hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là trách nhiệm của Nhà nước. Đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) cho rằng, Nhà nước có trách nhiệm với cả nền kinh tế, với dân, và sự hỗ trợ với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đảm bảo cơ chế thị trường chứ không phải là không giới hạn.

Nhìn tổng thể dự án luật, đại biểu Bùi Sỹ Lợi (Thanh Hoá) nhận xét, dự thảo mới nhất đã khả thi hơn. Và điếm sáng của dự án luật chính là quy định hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh.

Phản ánh ý kiến từ các doanh nhân, Phó chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Tô Hoài Nam nói, chính sách tại dự thảo luật là nhất quán và quy định về hỗ trợ rất rộng, tác động tích cực đến tất cả các khâu của doanh nghiệp.

Theo nghị trình, kỳ họp thứ ba tới đây Quốc hội sẽ xem xét thông qua dự án Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Theo Nguyễn Lê

VnEconomy

Đọc tiếp »

Luật sư Nguyễn Tiến Hòa - Đoàn Luật sư Hà Nội: Áp giá sàn vé máy bay là vi phạm Luật Cạnh tranh

Có thể khẳng định, nếu áp giá sàn vé máy bay là vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004.

Bởi, thứ nhất, trong Luật Cạnh tranh đã định nghĩa hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế…

Việc Jetstar và Vietnam Airlines đề xuất áp giá sàn vé máy bay là một hành vi hạn chế cạnh tranh, hạn chế giá rẻ, không có lợi cho người tiêu dùng. Thứ hai, nếu áp giá sàn vé máy bay thì sẽ làm giảm đáng kể tính cạnh tranh giữa các hãng hàng không, đề xuất này chỉ có tác dụng bảo hộ cho một số hãng hàng không mà đi ngược lại nguyên tắc tôn trọng cạnh tranh bình đẳng trong Luật Cạnh tranh.

Hơn nữa, theo quy định về nguyên tắc quản lý giá trong Luật Giá năm 2012 thì Nhà nước thực hiện quản lý giá theo cơ chế thị trường; tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy, trách nhiệm của Nhà nước là đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, giám sát chất lượng chứ không phải là quyết định giá bán của các hãng hàng không. Cạnh tranh chính là đòn bẩy để cải tiến chất lượng, người tiêu dùng sẽ được lợi so với việc áp giá sàn. Do đó, cần phải tôn trọng nguyên tắc cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

Theo Huệ Linh

An Ninh Thủ Đô

Đọc tiếp »

SCIC có thể thành “siêu ủy ban” quản vốn Nhà nước tại doanh nghiệp

Phó thủ tướng Vương Đình Huệ vừa có chỉ đạo về việc thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước và vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Bộ Tài chính đề xuất.

Theo Phó thủ tướng, tại cuộc họp bàn về đề án mới đây, về cơ bản, các bộ thống nhất về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ tại đề án của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước và vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Chính phủ nhìn nhận, việc tách chức năng đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp không làm giảm vai trò, mà tạo điều kiện cho các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc nâng cao hiệu quả chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn Nhà nước.

Trên cơ sở ý kiến của Ban Cán sự đảng Bộ Tài chính, Phó thủ tướng Vương Đình Huệ giao Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài chính, lãnh đạo các bộ: Nội vụ, Tư pháp và Văn phòng Chính phủ nghiên cứu, bám sát theo đúng các quy định của Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, để hoàn thiện đề án theo hai mô hình cơ quan chuyên trách.

Thứ nhất, mô hình cơ quan chuyên trách là ủy ban thuộc Chính phủ, với hai phương án.

Phương án 1, thành lập mới cơ quan chuyên trách trên cơ sở điều chuyển cán bộ tại các bộ, ngành liên quan, bổ sung một số nhân sự đủ điều kiện từ Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước ( SCIC ), bảo đảm không làm tăng biên chế theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Theo đó, cơ quan chuyên trách quản lý danh mục khoảng 30 tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước và doanh nghiệp có vốn Nhà nước quy mô lớn, trong đó bao gồm SCIC là đầu mối độc lập để quản lý và thoái vốn tại các công ty cổ phần Nhà nước không cần nắm giữ. Đây là phương án chính.

Phương án 2, nâng cấp SCIC thành ủy ban quản lý vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp để quản lý doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và doanh nghiệp có vốn Nhà nước.

Thứ hai, mô hình cơ quan chuyên trách là doanh nghiệp, nhằm tăng cường, củng cố, kiện toàn SCIC là doanh nghiệp trực thuộc Chính phủ làm chức năng đại diện chủ sở hữu (tăng địa vị pháp lý, nhân lực); trong đó làm rõ đầu mối quản lý danh mục công ty cổ phần do SCIC hiện đang quản lý và các công ty cổ phần mà các bộ, ngành, địa phương sẽ bàn giao trong thời gian tới.

Phó thủ tướng đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì với các bộ tập trung phân tích ưu, nhược điểm của từng mô hình, phương án một cách toàn diện, khách quan, trung thực, với tinh thần không chờ đến 2020 mới kết thúc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước từ các bộ, địa phương về cơ quan chuyên trách; đồng thời bảo đảm thống nhất với đề án do Ban Kinh tế Trung ương đang chủ trì, sẽ trình hội nghị Trung ương 5, khóa 12 tới.

Phó thủ tướng yêu cầu các bộ ngành nói trên phải hoàn thiện đề án để báo cáo, trình Thủ tướng trước ngày 7/4 tới.

Theo Song Hà

VnEconomy

Đọc tiếp »

Việt Nam nằm trong top 5 nước có giá trị đầu tư lớn nhất ở Campuchia

Theo phóng viên TTXVN tại Phnom Penh, Việt Nam tiếp tục nằm trong top 5 nước có giá trị đầu tư lớn nhất tại Campuchia.

Về đầu tư, tính lũy kế đến tháng 12/2016, các doanh nghiệp Việt Nam đã có 183 dự án giá trị và 2,85 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư tại Campuchia.

Việt Nam đang là đối tác thương mại lớn thứ ba của Campuchia. Tính đến hết năm 2016, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Campuchia đã đạt khoảng 3 tỷ USD.

Trong 2 tháng đầu năm nay, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 624,1 triệu USD, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm 2016. Hai nước đang hướng tới mục tiêu 5 tỷ USD trong thời hạn sớm nhất có thể.

Ngoài ra, Việt Nam luôn dẫn đầu về số lượt du khách viếng thăm Campuchia trong những năm gần đây, đồng thời Việt Nam cũng là điểm đến hàng đầu của du khách Campuchia khi ra nước ngoài.

Các thông tin trên được Đại sứ Thạch Dư đưa trong phát biểu khai mạc cuộc Tọa đàm doanh nghiệp Việt Nam đầu tư và kinh doanh tại Campuchia năm 2017, do Đại sứ quán Việt Nam tại Campuchia tổ chức với sự tham dự của khoảng 100 đại diện doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư và kinh doanh tại vương quốc này.

Theo Đại sứ, quan hệ hữu nghị truyền thống, điều kiện thuận lợi về mặt địa lý, sự quan tâm tạo điều kiện thuận lợi của chính phủ hai nước là một trong những cơ sở thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước Việt Nam-Campuchia có bước phát triển mạnh mẽ trong những năm vừa qua.

Tuy nhiên, Đại sứ cho rằng mặc dù đã đạt được những kết quả rất ấn tượng nhưng tiềm năng để đẩy mạnh hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Campuchia còn rất lớn.

Do đó, với mong muốn đồng hành cùng doanh nghiệp, Tọa đàm doanh nghiệp Việt Nam đầu tư và kinh doanh tại Campuchia năm 2017 được tổ chức nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam hiểu thêm tình hình và cơ hội đầu tư kinh doanh tại Campuchia, tiếp tục giữ vững vị trí hàng đầu tại địa bàn vốn đã được tạo dựng trong nhiều năm qua, đồng thời tạo cơ hội kết nối các doanh nghiệp đang đầu tư kinh doanh tại Campuchia.

Sau phần giới thiệu về tình hình chính trị, kinh tế Campuchia hiện nay, thông báo về các thỏa thuận hợp tác song phương giữa Việt Nam và Campuchia trong thời gian qua do Công sứ Nguyễn Trác trình bày, nhiều đại biểu các doanh nghiệp như Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Campuchia (AVIC), Tập đoàn Cao su Việt Nam (VRG), Metfone, Angkorr Milk, Bệnh viện Chak Angre… đã nêu một số khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp đối với Chính phủ Campuchia và Việt Nam về cơ chế hiện hành của chính phủ hai nước đối với các nhà đầu tư Việt Nam sang Campuchia, nhất là đối với các vấn đề liên quan đến thuế, thị thực cho người lao động Việt Nam.

Theo PV

Vietnam+

Đọc tiếp »

Giá sàn vé máy bay tuyến nội địa sẽ là 0 đồng?

Jetstar Pacific đề xuất giá sàn vé máy bay cho tuyến Hà Nội TPHCM là 1,1 triệu đồng, Vietnam Airlines đưa ra mức 1,54 triệu. Trong khi đó, Luật Hàng không năm 2006 quy định mức giá tối thiểu với tuyến nội địa là 0 đồng.

Khi được hỏi ý kiến về dự thảo Quyết định khung giá dịch vụ vận chuyển hàng không hạng vé phổ thông cơ bản, Jetstar Pacific và Vietnam Airlines đồng loạt đề xuất giá sàn. Tuy nhiên, trước khi Jetstar Pacific và Vietnam Airlines đưa ra mức đề xuất giá sàn với vé máy bay nội địa ở mức trên 1 triệu đồng/vé, chính 2 hãng này cũng thường xuyên tung khuyến mại với mức thấp hơn.

Kể từ khi phải chạy đua cùng Vietjet với các chương vé giá rẻ, thậm chí nhiều vé là 0 đồng, hiệu quả kinh doanh của cả 2 hãng hàng không này đều suy giảm. Trong đó, Jetstar Pacific hiện có mức lỗ lũy kế tới hơn 3.000 tỷ đồng. Ở chiều ngược lại, công ty dẫn đầu về bán vé giá rẻ và nổi tiếng với những tấm vé 0 đồng lại báo lãi sau thuế tới 2.500 tỷ đồng cho năm 2016.

Cùng với phân tích của Vietnam Airlines trong bản kiến nghị (với dữ liệu áp dụng giá sàn, nới trần đồng thời tăng giá 5% thì doanh thu sẽ có thêm 2.500 tỷ đồng sau 1 năm), ý nghĩa của kiến nghị giá sàn là khá rõ ràng. Tuy nhiên, nếu theo đúng quy định của Luật để tính toán và áp dụng giá sàn cho phù hợp sẽ là một bài toán rất thú vị, vì rút cục giá sàn sẽ là 0 đồng.

Thứ nhất, mỗi hãng hàng không sẽ có một cấu trúc về chi phí khác nhau. Vì vậy mới có mức giá mà Jetstar Pacific đưa ra là 1,1 triệu đồng, còn Vietnam Airlines là 1,54 triệu. Trong khi đó, Vietjet hiện có mức bán thấp nhất là 0 đồng (chưa kể phụ phí) mà vẫn có lãi lớn. Việc thỏa mãn đồng thời tất cả các hãng về giá sàn là điều không thể và cần có mức chi phí hiệu quả nhất, cân bằng với lợi ích của người tiêu dùng thì 0 đồng là mức nên được lựa chọn.

Thứ hai, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Hồng Trường cho biết tại họp báo Chính phủ vừa diễn ra, theo Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006, giá dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa hạng phổ thông do Bộ Tài chính quy định khung giá với mức giá tối thiểu bằng 0.

Thứ ba, việc bán vé với giá 0 đồng không đồng nghĩa với việc bán lỗ mà chỉ là thủ thuật kinh doanh trong ngành hàng không. Bản chất việc bán 0 đồng không đi kèm với chất lượng dịch vụ kém hay thua lỗ mà đơn thuần là đặc điểm của mô hình kinh doanh.

Nếu bỏ đi các mức giá kiểu 0 đồng, 1 đồng… để áp dụng giá tối thiểu kiểu 1,1 triệu đồng hay 1,54 triệu đồng thực tế là xóa bỏ một mô hình kinh doanh hiện đại, đem lại quyền lợi cho người tiêu dùng và đưa ngành hàng không trở về thời lạc hậu trước đây.

Điều này có thể thấy rõ ràng ở việc cùng bán vé 0 đồng thì Jetstar Pacific lỗ nặng còn Vietjet thì lãi đậm. Nói cách khác, mức giá 0 đồng là đặc điểm và là mức giá đặc trưng của ngành hàng không giá rẻ nên rất khó để hủy bỏ, áp mức giá sàn bạc triệu như đề xuất.

Thứ tư, vấn đề cuối cùng là bán bao nhiêu vé 0 đồng thì bị coi là phá giá? Đây là câu hỏi không dễ trả lời bởi hãng bán ít vé giá rẻ vẫn lỗ, còn bán nhiều hơn vẫn lãi là do cách vận hành kinh doanh của từng hãng. Vì thế, việc giám sát điều này trên thực tế là khó khả thi khi chưa có hậu quả thấy rõ được (tất cả cùng lỗ và chất lượng dịch vụ toàn ngành hàng không đi xuống vì chỉ tập trung cạnh tranh giá).

Và nói như một chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm trong ngành hàng không, nếu việc bán vé 0 đồng theo mô hình hợp lý vẫn có lãi, thì việc áp giá sàn với mức cả triệu đồng để giúp cho các hãng vận hành kém hiệu quả bớt lỗ hoặc có lãi sẽ là hành động không công bằng với người tiêu dùng. Người mua không có nghĩa vụ phải trả tiền cho việc vận hành kém hiệu quả của hãng hàng không, họ cần được đem đến lựa chọn tốt nhất.

Theo Hoàng Ly

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

“Made in China 2025”, tham vọng người Trung Quốc và câu chuyện kinh tế Việt Nam

2 năm trước, tháng 5/2015 chiến lược “Made in China 2025” ra đời nhằm thay đổi triệt để bộ mặt công nghiệp Trung Quốc. Chiến lược 10 năm có thể là quyết sách tốt đối với ngành công nghiệp nước này, tuy nhiên, nó cũng đồng thời khiến các nước khác, trong đó có Việt Nam phải lo ngại.

Tham vọng của Made in China 2025

Ngày 19/5/2015, chính quyền Trung Quốc đã công bố kế hoạch “Made in China 2025” nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp sản xuất nước này trong vòng 10 năm tới.

Chiến lược được ra đời trong thời điểm các nhà máy Trung Quốc đang gặp nhiều khó khăn vì nhu cầu giảm, nền kinh tế trong nước tăng trưởng chậm lại và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các nền kinh tế đang phát triển trong khu vực.

Tân Hoa Xã cho biết Quốc vụ viện Trung Quốc đề ra 9 ưu tiên để đưa nước này thành “cường quốc sản xuất của thế giới”, bao gồm tăng cường đổi mới, tích hợp công nghệ thông tin với sản xuất, quảng bá nhãn hiệu Trung Quốc, khuyến khích sản xuất xanh, tái cơ cấu các ngành sản xuát, quốc tế hoá sản xuất...

Chính phủ Trung Quốc cam kết đầu tư để phát triển 10 ngành công nghệ cao như chế tạo người máy, thiết bị hàng không không gian, xe hơi sử dụng năng lượng mới, vận tải công nghệ cao, tàu và thiết bị hàng hải công nghệ cao, y dược sinh học...

Theo đó, nhiều trung tâm đổi mới sản xuất sẽ được xây dựng. Hiện, con số này được đề xuất là 15 trung tâm đến năm 2020 và sẽ mở động thành 40 vào năm 2025.

“Bắc Kinh sẽ tăng chi phí nghiên cứu phát triển từ 0,88% doanh số sản xuất trong năm 2013 lên 1,68% vào năm 2025”, Tân Hoa Xã cho hay.

Rủi ro tiềm ẩn đối với nền kinh tế Việt Nam?

Sau khi ra đời và được áp dụng, “Made in China 2025” đã vấp phải nhiều chỉ trích của các doanh nghiệp nước ngoài.

Phòng Thương mại Liên minh châu Âu ở Bắc Kinh ngày 7/3 vừa qua đã công bố một bản báo cáo dài chỉ trích việc các doanh nghiệp ngoại bị đối xử bất công, cảnh báo về các khoản trợ cấp của Bắc Kinh có thể tạo ra mức dư thừa công suất lớn trong một số ngành công nghiệp.

Một ví dụ về sự bất công được chỉ ra là việc các doanh nghiệp châu Âu buộc phải chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc mới được tiếp cận thị trường.

“Giới doanh nghiệp châu Âu đang đối mặt với áp lực lớn là phải chuyển giao công nghệ tiên tiến để đổi lấy quyền tiếp cận ngắn hạn vào thị trường”, báo cáo của Phòng Thương mại EU viết.

Nhưng các doanh nghiệp châu Âu không phải là đối tượng duy nhất bị ảnh hưởng bởi chiến lược tham vọng của Bắc Kinh.

“Lộ trình của Trung Quốc là thay thế công nghiệp giá rẻ tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường. Đến năm 2025, họ dự kiến hàm lượng công nghệ cao chiếm trong 1 sản phẩm sản xuất được phải là 70%. Do đó những công nghệ thải loại của Trung Quốc sẽ tìm cách chuyển sang các nước khác, Việt Nam có thể nằm trong số đó. Đấy là rủi ro rất lớn”, TS. Lương Văn Khôi , Phó GĐ Trung tâm thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (Bộ KHĐT) cho biết.

TS. Lương Văn Khôi cũng cho biết thêm hiện Trung Quốc đang có những chính sách cắt giảm, đóng cửa các nhà máy nhiệt điện sử dụng than.

“Khả năng họ sẽ chuyển những nhà máy này sang Việt Nam. Thời gian qua đã có những dự án Trung Quốc ‘lọt’ vào Việt Nam. Chúng ta cần phải theo dõi sát sao, nếu không Việt Nam có nguy cơ trở thành bãi rác thải loại của nước khác”, TS. Khôi nói.

Quý I/2017, số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KHĐT) cho biết vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam đã vượt qua Nhật Bản, Mỹ, và nhiều quốc gia khác, chỉ đứng sau Hàn Quốc và Singapore.

Cụ thể, 3 tháng đầu năm Việt Nam nhận được hơn 823 triệu USD từ Trung Quốc với 58 dự án đăng ký cấp mới và 177 lượt vốn góp mua cổ phần. Số vốn này tăng khá mạnh so với con số 290 triệu USD của cùng kỳ năm ngoái.

“Liệu đây có phải là dấu hiệu cho những hành động trong chiến lược Made in China 2025?”

“Tôi nghĩ không nên loại trừ bất cứ nguy cơ nào cả, nhất là khi họ đang tự khuyến khích đầu tư vào những ngành công nghiệp cao, việc dư thừa phải tìm cách thải loại là điều có cơ sở”, ông Khôi trả lời.

Do đó, vị TS của trung tâm dự báo kinh tế cho rằng cần phải cân nhắc kỹ đối với những dự án của Trung Quốc đầu tư vào, đồng thời, phải giám sát việc chuyển giao công nghệ đối với những dự án đã ký.

“Nhà máy phân đạm Hà Bắc là một ví dụ, chuyển giao không tốt, lắp đặt xong thì đắp chiếu”, TS. Lương Văn Khôi cho hay.

Theo Đức Minh

Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Chuyện doanh nghiệp logistics đóng hơn 2 tỷ chi phí mỗi tháng và nút thắt về môi trường kinh doanh

Bên lề buổi hội thảo mới diễn ra tại Hà Nội, ông Nguyễn Tương - Phó tổng thư ký hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam - đã chia sẻ nhiều trăn trở của mình việc môi trường kinh doanh tại Việt Nam, nhìn từ lát cắt của ngành logistics.

Hôm ngày 4/4, trong phỏng vấn bên lề hội thảo "Kiến tạo môi trường kinh doanh thông thoáng - Thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại tại Việt Nam" được tổ chức bởi diễn đàn kinh tế tư nhân (VPSF), các đại diện doanh nghiệp đã chia sẻ kỳ vọng của mình về những cải thiện cần làm đối với môi trường kinh doanh Việt Nam ngay lúc này.

Theo đại diện các doanh nghiệp trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã có rất nhiều nỗ lực nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng và những nỗ lực này cũng đã mang lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, ở nhiều ngành, khó khăn trong thủ tục hành chính, hệ thống phí, lệ phí nhiêu khê và thiếu minh bạch vẫn là rào cản lớn cản trở hoạt động của doanh nghiệp.

Cụ thể, trong cuộc trao đổi với ông Nguyễn Tương - Phó tổng thư ký hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, có thể thấy những thiếu sót hiện hữu của môi trường kinh doanh tại Việt Nam, đặc biệt là trong ngành logistics.

Theo ông, bản chất của việc tạo môi trường kinh doanh thông thoáng chính là để giúp các doanh nghiệp giảm giá thành và từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Nói riêng trong ngành logistics thì nhiệm vụ của các doanh nghiệp trong ngành là làm sao giảm thời gian cung cấp dịch vụ, giảm giá thành, qua đó tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nâng cao năng lực cạnh tranh.

Tuy nhiên, những điều lý tưởng này dường như chưa diễn ra trong ngành logistics.

Ông Nguyễn Tương lấy ví dụ về chuyện thu phí ở cảng Hải Phòng đã làm dư luận xôn xao cách đây gần 2 tháng. Ông tiết lộ có những doanh nghiệp xuất nhập khẩu như May 10 phản ánh việc đã phải đóng đến 2 tỷ - 2,2 tỷ chi phí thêm trong năm 2016 vừa qua.

Còn nhóm các doanh nghiệp logistics là nhóm làm dịch vụ vận chuyển cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì cũng chẳng có kết cục khá hơn. Thậm chí, rủi ro còn là cao hơn cho nhóm doanh nghiệp này do các nghiệp vụ tạm ứng thường được thực hiện.

“Ví dụ cụ thể một doanh nghiệp làm dịch vụ logistic thì một tháng có thể làm được 5000 container 40 feet qua cảng Hải Phòng. Mỗi container chúng tôi nộp 500.000 đồng, tính ra là hơn 2,7 tỷ một tháng. Số tiền này chúng tôi phải ứng ra cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, sau 1 tháng mới thu lại được.

Thử hỏi, với con số 2,7 tỷ/tháng chi phí như vậy thì là biết bao nhiêu khó khăn cho doanh nghiệp” – ông Nguyễn Tương nói.

Không chỉ có doanh nghiệp Việt Nam kêu ca mà thậm chí cả các chủ tàu nước ngoài cũng phàn nàn về các mức phí ‘trời ơi’ đang được thu tại các cảng ở Việt Nam.

Còn nhớ, trong một cuộc hội thảo về xuất nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản mới đây, vị đại diện Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản đã phải thốt lên “chúng tôi không biết điều gì đang xảy ra khi phải nộp mức phí cao như thế”.

Ví dụ, theo lời ông Nguyễn Tương thì một container 20 feet sẽ bị thu 2,1 triệu, 40 feet sẽ bị thu 3,2 triệu. Các loại phí này cũng không hề được công khai minh bạch. Tại cảng, người ta thu các các loại phí về làm vệ sinh, sửa chữa (cho container hàng) – những mức phí mà theo lời ông Nguyễn Tương là “thu là sai hoàn toàn”.

Mức thu phí cao, không minh bạch là một chuyện, vị Phó Tổng thư ký còn chỉ ra bất cập về chuyện “thu tiền tức thời” của các đơn vị hải quan tại các cảng.

Theo đó, các cơ quan hải quan thường có động tác là 31/12 thông báo, thì 1/1 thu luôn, khiến cho doanh nghiệp hầu như không kịp chuẩn bị. Đôi co một hồi thì hải quan nói đã thông báo trước rồi, tuy nhiên theo ông Tương thì đây “toàn không phải là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, người phải bỏ tiền ra trả phí”.

Cũng bên lề hội thảo, ông Hoàng Việt Hà, Giám đốc điều hành tập đoàn FPT đã bổ sung thêm cho ý kiến của ông Nguyễn Tương.

Ông Hà tiết lộ chìa khóa thực sự để các doanh nghiệp lớn mạnh không phải những hỗ trợ kiểu hỗ trợ vật chất, ví dụ như tăng tiền, tăng ngân sách hay chi thêm cái này cái kia, mà cái quan trọng là phải có một môi trường kinh doanh hiệu quả.

Đề làm được điều đó, việc đơn giản hóa thủ tục, giảm thuế phí…mới chỉ là một phần. Điều quan trọng là với những chính sách đó thì Chính phủ cần có một lộ trình cam kết thực hiện thật liên tục và trong thời gian dài.

Vượng Lê

Theo Trí Thức Trẻ

Đọc tiếp »